Bạch Yến
và cuộc đời đầy những chuyện lạ: Từ chối nhạc sĩ Lam Phương và cuộc hôn nhân chỉ sau 24h gặp nhau
và cuộc đời đầy những chuyện lạ: Từ chối nhạc sĩ Lam Phương và cuộc hôn nhân chỉ sau 24h gặp nhau
Giọng
hát từng làm mưa gió sân khấu ca nhạc những năm 60 – Bạch Yến – về thăm quê
hương sau nhiều năm định cư ở Pháp. Lần đầu tiên, cô kể câu chuyện cuộc đời
mình với những chuyện tưởng sẽ mãi vùi chìm trong lớp bụi thời gian .
Sân
khấu tối om. Trong bóng tối, một giọng hát liêu trai như chứa cả hồn đêm đông
xứ Bắc với những thoáng heo may rờn rợn và lất phất mưa phùn cất lên gọi những
năm tháng xa xưa từ thời nhạc sĩ viết ra ca khúc vọng về:
“Chiều
chưa đi màn đêm rơi xuống
Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông
Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời
Cùng mây xám về ngang lững trời”
Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông
Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời
Cùng mây xám về ngang lững trời”
Một
vệt sáng rọi vào bóng dáng người nghệ sĩ nhỏ bé, cô đơn tiếp tục tấu khúc Đêm
Đông huyền ảo của cố nhạc sĩ Nguyễn văn Thương bằng một thứ ngôn ngữ
biểu diễn lạ đến khó tưởng. Tất cả đều im lặng. Sao lại thế? Thường quà tặng
đối với nghệ sĩ là những tràng pháo tay, nhưng sao lại tặng sự im lặng đến thế
này?
Hình
như trong nghệ thuật luôn có những khoảng lặng hiếm hoi vậy đấy. Khoảng lặng để
khám phá một điều lạ. Ai hát nhỉ? Người trẻ thầm tự hỏi. Người già ngồi im. 50
năm vắng bóng trên sân khấu nước nhà của người ca sĩ cũng đủ để người trẻ phải
thầm hỏi vậy. Và dù chỉ một lần trở lại sau ngần ấy thời gian cũng đủ làm cho
những khán giả một thời nhận ra: 50 năm về trước, cũng có một sân khấu thế này,
một khoảng đêm thế này, một vệt sáng như thế này và một bóng ca sĩ nhỏ bé thế
này.
Và
giọng hát Bạch Yến vang lên. Và sân khấu cũng im lặng như đêm nay.
- Đêm
Đông là ca khúc đã mấy chục năm rồi chị chưa hát lại. Và cũng từng đó thời
gian biết bao người ghi dấu ấn với nó như Lê Dung, Lệ Thu, Cẩm Vân… Nhưng
cứ nhắc về ca khúc này, là khán giả cứ nhắc tới Bạch Yến.
Bạch Yến: Điều đầu tiên
xin cho Bạch Yến nói lời tri ân với khán thính giả trong nước sau mấy chục năm
xa cách. Với “Đêm Đông”, tôi không phải là người hát hay nhất nhưng lại là
người có cách thể hiện lạ nhất so với những gì trên bản nhạc. Ca khúc được viết
theo thể Tango. Khi nghiên cứu ca từ, tôi quyết định hát theo điệu slow rock để
diễn tả hết cái nỗi buồn, nỗi cô đơn của ca khúc.
Quên
sao được lần đầu tiên, tại phòng trà Trúc Lâm Trà thất với những rock và nhạc
chủ yếu để khiêu vũ, nhưng rồi bỗng có một khoảnh khắc sân khấu ngập trong bóng
tối, nhạc lắng lại và mọi người cùng lắng. Đó là lần đầu tiên Bạch Yến hát Đêm
Đông như một nốt trầm giữa muôn vàn thanh âm vang động. Và cái tên Bạch Yến
cũng cứ thế được khẳng định. Để rồi suốt gần một tháng, lúc nào khán giả cũng
đến phòng trà đó để nghe Đêm Đông, yêu cầu Bạch Yến hát Đêm Đông…
- Sau
Đêm Đông được ít năm thì Bạch Yến rời xa sân khấu đi tu nghiệp ở Pháp và
cũng xa quê hương từ độ ấy. Có một lần, MC Nguyễn Ngọc Ngạn cho biết nhạc
sĩ Lam Phương từng viết như thế này để dành cho Bạch Yến: “Về làm chi, rồi
em lặng lẽ ra đi, gom góp yêu thương quê nhà, dâng hết cho người tình xa”.
Thực hư là thế nào, hả chị?
Ông
Ngạn là nhà văn, nên ông nói cho hình ảnh đấy mà. Chắc gì nhân vật trong bài
hát đó là Bạch Yến chứ?
- Không
có lửa làm sao có khói chứ? Lúc đó trên sân khấu, mặt chị bừng đỏ và cười
ấp úng…
À,
ừ… Nhưng là kỷ niệm xa xưa lắm rồi mà. Lên ông lên bà cả rồi, nhắc chi những
chuyện quá vãng…
- Với
những người yêu nhau, họ thường tự nhủ kỷ niệm đẹp thì nên gìn giữ. Nhưng
chị ơi, với những người ngoài cuộc, nhiều khi họ rất muốn biết cái đẹp của
kỷ niệm ấy. Rất xin lỗi chị và chồng chị để mạn phép được hỏi, phải là một
cô gái như thế nào mới để lại dư âm giai điệu thiết tha về sau đến vậy?
Bạn
sẽ ngạc nhiên đấy. Bạch Yến ngày ấy trên sân khấu là người từng đêm hát nhạc
rock. Lùi lại một chút thời gian, Bạch Yến là thành viên đội xiếc mô tô bay
đấy!
- Điều
này thì tôi đã được đọc. Nhưng vẫn chưa tưởng tượng nổi một Bạch Yến nhỏ
nhắn, duyên dáng của ngày xưa lại “quậy” với rock và mạo hiểm trên chiếc
mô tô bay…
Đời
tôi toàn những chuyện kỳ lạ thôi. Trước khi biểu diễn mô tô bay, tôi đã đi hát
ở các phòng trà, 11 tuổi, tức là vào năm 1953, tôi đã đoạt huy chương vàng
tiếng hát nhi đồng trên đài phát thanh Pháp Á. Tôi trải qua một tuổi thơ vất vả
và trong một gia đình có 8 anh chị em. Thực ra, gia đình tôi ngày trước thuộc
diện khá giả. Ba mẹ sớm chia tay, mẹ tôi vốn giàu tự ái nên không cần sự hỗ trợ
kinh tế của Ba tôi nên từ nhỏ, các anh chị em phải lao động sớm .
Năm
1954 nhà tôi bị cháy, cuộc sống vốn túng quẫn lại càng túng quẫn hơn. Cậu ruột
đưa tôi và hai người em nữa huấn luyện mô tô bay để đi làm xiếc. Sau một năm
học xiếc, tôi và em trai (9 tuổi) trở thành những người biểu diễn giỏi nhất
đoàn. Cậu bao ăn ở, mỗi ngày biểu diễn mỗi người được thêm mười đồng. Mô tô hồi
đó, động cơ đơn giản. Phải chạy xe tốc độ lên những cái thùng trông như ống
cống. Tất cả đều mặc cho sự cẩn trọng và rủi rui của số phận. Nếu lơ đễnh, cả
xe lẫn người sẽ rơi từ trên cao xuống và mạng sống sẽ khó bảo đảm. Đến giờ, tôi
vẫn còn ám ảnh những lần biểu diễn đó, trong suốt hai năm ròng.
- Chị
có gặp tai nạn lần nào trong hai năm biểu diễn?
Tai
nạn nhẹ thì nhiều, tai nạn nặng thì một lần. Và đó cũng là lần cuối cùng để tôi
quyết định không mạo hiểm với trò chơi này nữa. Lần đó tôi đang biểu diễn đứng
hai chân trên mô tô thì một chú cẩu chạy qua, bất ngờ xe đổ đánh rầm xuống
đường. Chút xíu nữa thôi là đầu tôi bị đập xuống lề đường. Quần áo, tay chân te
tua. Mình mẩy đau điếng. May thay là khuôn mặt và cái đầu không hề gì.
- Thế
rồi chị quay lại với nghề hát? Nhiều người chưa hình dung hết không khí
phòng trà cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ trước như thế
nào…
Tôi
trở lại sân khấu vào cuối năm 1956 ở phòng trà Trúc Lâm Trà Thất, hát một số
bài hát bằng tiếng Pháp, nhạc rock và dance. Từ năm 1958 tôi hát với một ban
nhạc do một người Philippines tên là Ely Javier. Không khí phòng trà ca nhạc
hồi đó cũng khá tưng bừng, khán giả đến các phòng trà chủ yếu là để khiêu vũ,
nên giữa người thưởng thức và biểu diễn có những lúc không còn khoảng cách. Vì
vậy nên bài Đêm Đông là một “chuyện hiếm” khi không hề lôi khán giả ra khiêu vũ
mà họ vẫn nghe từ đầu đến cuối. Sau 5 năm biểu diễn, tiếng tăm đã nổi ở sân
khấu trong nước, có một chỗ đứng đặc biệt trong lòng khán giả, tôi quyết định
đi tu nghiệp, vào năm 1961..
- Sao
chị quyết định đi học, trong khi tiếng tăm, tiền bạc, chị đã có, sự nghiệp
đang trên đỉnh cao?
Chính
vì có những thứ đó rồi nên mới phải đi học. Sự nổi tiếng đó cũng chỉ là nổi
trong một cái ao thôi, không nên là những con ếch tự hào tiếng mình kêu to, kêu
vang trong cái ao làng nhà mình mà phải đi học kỹ thuật hát bài bản để hát được
bền. Phải biết cách giữ khán giả lại cho mình bằng sự nâng cấp trong sự nghiệp.
Khi ra đi, tôi quyết được thành công giống như danh ca Edith Piaf, từng làm mưa
làm gió sân khấu mọi thời đại với nhạc khúc La Vie en Rose.
- Và
chị đã không quay về. Phải chăng giống như lời hát của Lam Phương: Về làm
chi rồi em lặng lẽ ra đi?
Không,
tôi không ở lại với lý do của tôi với sự phát triển nghề nghiệp âm nhạc dân tộc
và bến đỗ bình yên trong hạnh phúc riêng tư của mình. Nói thật là tôi không
biết anh Lam Phương viết ca khúc nào cho mình hay cho ai. Có một lần anh ấy nửa
đùa nửa thật: Anh đã viết cho Yến đến hàng trăm ca khúc…
- Hàng
trăm ca khúc? Chị không biết ư?
Mãi
sau này chị Túy Hồng, vợ của anh Lam Phương, là bạn của tôi, có nói: “Bồ
không biết đầy thôi, ổng viết cho bồ nhiều ca khúc thiết tha lắm. Và cứ thế,
mình hình dung ra cốt truyện để dựng thành kịch đấy bồ”. Cả hai chị em ôm
nhau cười.
- Thực
ra ca khúc nào anh Lam Phương viết cho chị chắc chắn chị sẽ biết mà. Vì
những người trong cuộc luôn hiểu những gì trong lời ca tiếng hát của nhau.
Ồ
không, không. Thế mà có ca khúc tôi nghĩ anh Lam Phương viết cho tôi, té ra lại
không phải đầy. Một lần, anh mang đến một ca khúc và nói: “anh đo ni
đóng giày để viết cho giọng hát của Yến”. Vỡ bài, tôi rất thích những giai
điệu và ca từ và cứ đinh ninh anh viết cho mình, đó là ca khúc “Cho Em Quên
Tuổi Ngọc”. Nhưng thực tế sau này tôi biết, ca khúc đó không phải viết cho tôi,
hay đúng hơn, cô gái trong bài hát đó không phải là tôi.
- Và
chị buồn vì điều đó?
Không.
Tác phẩm là tác phẩm. Ai là nhân vật trong đó cũng như nhau cả thôi, đều để lại
cho đời cả chứ. Người nghệ sĩ khi qua đời cũng đâu có mang theo được. Người
viết ra một tác phẩm hay và có nhiều người biểu diễn thành công thì phải cám ơn
cuộc đời chứ sao lại buồn nhỉ?
- Xin
lỗi chị khi khơi lại những điều quá vãng. Chị và anh Lam Phương một thời
là một cặp đôi đẹp trong làng nhạc?
Tôi
không muốn nhắc đến chuyện này. Anh Lam Phương đã có gia đình và đang bịnh
nặng, tôi không muốn gợi nhớ, còn tôi cũng đã có cuộc sống riêng của mình. Tôi
chỉ nói được: ngày đó, anh Lam Phương có hỏi cưới tôi nhưng tôi không đồng ý.
Mọi chuyện đã kết thúc từ độ ấy.
Âm
nhạc dắt chúng tôi đi
- Trong
cuộc sống, chị quan trọng sự nghiệp hơn hay hạnh phúc hơn?
Dĩ
nhiên là hạnh phúc. Chính vì vậy nên tôi đã có vài lần hủy hôn khi tôi nhận
thấy người ta đến với tôi bằng cái vẻ hào nhoáng trên sân khấu của mình. Tôi tự
hỏi, liệu một ngày mình không hát nữa hay phong độ đi xuống, người ta có còn ở
bên cuộc đời mình nữa hay không? Và thế là tôi thôi. Dù có đi Tây đi Tàu, nổi
tiếng nơi này nơi nọ thì gia đình cũng là bến đỗ cuối cùng.
- Chính
vì vậy nên chị đã hoàn toàn thay đổi về âm nhạc (dân tộc gần như 100%) khi
nên duyên với con trai của GS Trần Văn Khê – nhạc sĩ Trần Quang Hải?
Lại
thêm một chuyện lạ nhé. Hồi đó tôi từ Mỹ qua Paris chơi và gặp anh Hải. Anh Hải
lúc đó đã ly dị vợ và có một cô con gái 5 tuổi. Trong một lần ăn trưa, anh Hải
nói: “Mình cưới nhau nhé”. Tôi cứ nghĩ anh đùa nên “Dạ”.
Một tuần sau mới tá hỏa rằng anh đã đi phát thiệp cưới hết rồi…
- Vậy
khác những lần trước, quyết định cưới và phát thiệp, chị vẫn hủy hôn. Còn
lần này, không có ý định cưới nhưng phát thiệp chị lại đồng ý. Nghe ngược
ngược sao nhỉ!
(cười
to). Thì đó, cuộc đời tôi toàn những chuyện lạ mà. Thực ra tình yêu nó hiện hữu
trong những cử chỉ hàng ngày. Không cứ phải khoác lên nó cái áo những lời nói
say đắm, những tuyên bố nọ kia mới là yêu. Mỗi người có một cách yêu thương của
mình.
- Cuộc
hôn nhân “tình cờ” này, anh Hải có Tân Hôn dạ khúc để đời. Còn chị, có một
hạnh phúc không phải ai cũng có, và một ngã rẽ âm nhạc kỳ diệu.
Hồi
đó anh Hải nghèo lắm. “Tân hôn dạ khúc” được viết cho đám cưới đơn sơ của chúng
tôi. Tôi dẫu sao lúc đó cũng là một ca sĩ nổi tiếng nhưng tôi không nghĩ về
những nổi tiếng nọ kia nữa mà mình nghe theo tiếng gọi của chính mình. Anh Hải
thuộc diện đàn ông càng sống càng thấy thú vị. Với anh ấy, tất cả mọi vật đều
được biến thành nhạc cụ. Anh ấy mê nhạc dân tộc và tìm trong những điều đơn sơ
bình dị hàng ngày ra ngôn ngữ âm nhạc như người dân lao động vậy. Chính anh đã
cho tôi biết âm nhạc dân tộc quan trọng như thế nào. Chính vì vậy, nửa cuộc đời
còn lại, tôi đã dành cho chồng và nhạc dân tộc.
- Khi
chung sống, chị làm mẹ đứa con riêng của anh Hải. Chị có thể nói đôi chút
về người mẹ Bạch Yến không?
Tôi
nuôi cháu từ lúc 5 tuổi đến khi cháu đi lấy chồng.. Vợ trước của anh Hải cũng
rất quý tôi. Trong quá trình sống, mẹ con rất hiểu và yêu thương nhau nên khá
nhiều người không nghĩ rằng tôi không phàỉ là người sinh ra cháu. Trong gia
đình, tôi dạy cháu nói tiếng Việt và luôn ý thức dân tộc mình. Cháu nói tiếng
Việt khá đến độ ai cũng nghĩ cháu ở Việt Nam mới sang. Tôi cũng dạy cháu những
lễ nghi phép tắc của người phụ nữ Việt Nam.
Trong
ngày cưới cháu, tôi hát bài “Tân hôn dạ khúc” như lời dặn con mình. Tôi không
cầm nổi nước mắt khi nói thật cho mọi người biết rằng cháu không phải là con đẻ
của tôi vì sự thật vẫn là sự thật, phải để mọi nguời biết. Trong quá trình
sống, ranh giới mẹ kế con chồng không còn nữa. Từ trong tâm khảm chúng tôi là
mẹ con của nhau và mãi mãi vẫn là thế. Tôi không có con nên mọi tình cảm, dành
hết cho cháu.
- Chị
và nhạc sĩ Trần Quang Hải đã có một sự nghiệp biểu diễn nhạc dân tộc lẫy
lừng thế giới và phần nào làm rạng danh cho người Việt. Vậy còn trong cuộc
sống riêng tự, “ngôn ngữ âm nhạc” riêng của hai người như thế nào?
Âm
nhạc dắt chúng tôi đi, se duyên thành vợ chồng và kết định mệnh thành những
người bạn tri âm tri kỷ của nhau. Tôi thấy mình may mắn vì có được những điều
đó. Và may mắn nữa, ở xứ người, chúng tôi sống thuần túy bằng âm nhạc, và là
nhạc dân tộc chứ không phải là những thứ gì ở bên ngoài nó .
Anh
Hải vừa sáng tạo ra “nụ hôn bồi âm”. Hai người trong tư thế hôn nhau và phát ra
một âm thanh đặc biệt của âm nhạc giải tỏa mọi thứ. Nụ hôn này sẽ hàn gắn những
rạn nứt cho những cặp uyên ương nào hay cãi vã và mang lại niềm vui trong cuộc
sống gia đình. Với các nước dân số ít thì sẽ cần thiết (chống chỉ định với các
nước dân số đông)
- Câu
hỏi cuối. Ở độ tuổi ngoài thất thập, khi về Việt Nam biểu diễn thấy chị có
hẳn cả một nhạc sĩ đệm đàn tầm cỡ và một make up chuyên nghiệp đi cùng. Có
phải trong biểu diễn chị khá kỹ tính?
Người
đệm đàn cho tôi là anh Jean Louis Beydon, nguyên giám đốc nhạc viện thành phố
Vanves ở Pháp và chuyên gia makeup Theresa Hà. Họ đều là những người bạn của
tôi. Tôi nghĩ, một nghệ sĩ lên sân khấu luôn phải đẹp và phải biết cách hóa
trang cho phù hợp với bài hát. Sự đầu tư cẩn thận đó cũng là một cách tôn trọng
khán giả. Một nghệ sĩ tài danh đến cỡ nào mà không biết cách tôn trọng khán giả
thì sớm bị đào thải đi.
Theo Hoàng Nguyên Vũ – Thân Phận
và Hào Quang
No comments:
Post a Comment