Sự Thật về các “anh hùng” VC
Ls Nguyễn Văn Chức
CHÂN DUNG THẬT SỰ CỦA BIỆT ĐỘNG THÀNH SÀI GÒN : TRẦN VĂN
ĐANG- QUA LỜI KỂ CỦA LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN CHỨC.
Đọc để hiểu thêm bộ máy tuyên truyền cộng sản đã dựng nên các
hình tượng anh hùng một cách giả dối như thế nào để lừa lớp trẻ Việt Nam chết
thế cho chúng : từ Lê Văn Tám, Kim Đồng, Võ Thị Sáu, 10 cô gái thanh niên xung
phong ở Ngã Ba Đồng Lộc đến Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Văn Bé, Võ Thị Thắng... và
bây giờ là Trần Văn Đang.
Luật sư Nguyễn Văn Chức, người được luật sư đoàn Sài Gòn chỉ
định biện hộ (thày cãi) cho Trần Văn Đang, đã kể lại sự vụ của y như dưới đây.
Xin chép lại (trích trong báo Con Ong số 84) để quý bạn đọc thấy trong số các
nạn nhân của Việt Cộng, cũng có cả các liệt sĩ của chúng như trường hợp Trần
Văn Đang ở trong bài viết này.
" Tôi về đến nhà, đã thấy chiếc xe mô tô đen của trung sĩ
Ân đỗ trong sân. Ân giơ tay chào, đưa cho tôi một phong thư mầu vàng của tòa án
Mặt Trận, và yêu cầu tôi đọc ngay. Phong thư đóng dấu " tối mật ".
Tôi xé ra. Bức thư bên trong chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ đánh máy, nhưng tôi đọc
rất lâu. Tôi ký sổ biên nhận, rồi bước vào trong nhà.
Ân có chào tôi hay không, và chiếc mô tô rồ máy bỏ đi lúc nào,
tôi cũng không để ý. Tôi đang bận nghĩ đến hắn...
Cách đây khoảng 3 tháng, luật sư đoàn Sài Gòn chỉ định tôi biện
hộ cho hắn trước tòa án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật. Hắn là tên đặc công bị
bắt trong khi đặt chất nổ trên đường Tự Do. Hắn bị truy tố về hai tội phản
nghịch và mưu sát; hắn có thể bị tử hình. Sau khi xem xong hồ sơ, tôi vào nhà
lao để gặp hắn. Đây là một thói quen nghề nghiệp, và cũng là một cái thú. Nói
chuyện với tử tù, thường phạm hay chính trị, đôi khi hấp dẫn hơn đọc một cuốn
tiểu thuyết bán chạy nhất.
Tôi ngồi trong phòng đợi, nhìn ra vạt sân nắng bên kia chấn song
sắt, rồi chợt nhớ đến Nguyễn Văn Trỗi. Trước đây, Trỗi cũng đã ngồi nói chuyện
với tôi trong căn phòng này. Trỗi khóc như một đứa con nít, thỉnh thoảng đưa
hai tay lên vắt nước mũi rồi quẹt xuống gầm bàn. Trỗi còn trẻ, mới 26 tuổi,
nhưng trông già như người 40.
Hắn trẻ hơn Trỗi. Khi nhân viên nhà lao dẫn hắn đến gặp luật sư,
miệng hắn đang còn nhai nhóp nhép, hình như là khô mực. Người hắn sặc mùi dầu
khuynh diệp. Hắn khép nép ngồi xuống một cái ghế trước mặt, rồi chăm chú nhìn
tôi. Lúc đó tôi mới để ý đến cái đầu húi cua và khuôn mặt non nớt của hắn. Khác
hẳn với tấm hình đăng trên các báo: tóc dài bù xù, và mặt nhăn nheo như mang
đầy thẹo. Tôi mỉm cười hỏi: " Em vừa húi tóc? ". Hắn gật. Tôi lại
hỏi: " Em là Trần Văn Đang? ". Hắn gật.
- Em có bí danh Sáu Nhỏ, Hai Gà, Năm Lựu Đạn, có phải vậy không?
Hắn gật.
- Em bị bắt khi đặt chất nổ trên đường Tự Do, có phải vậy không?
Hắn gật.
Tôi nói cho hắn biết: tôi là luật sư sẽ cãi cho hắn trước tòa,
hôm nay tôi vào nhà lao gặp hắn để tìm hiểu thêm về tội trạng của hắn. Và tôi
yêu cầu hắn kể lại tất cả sự việc từ đầu đến cuối, để giúp tôi phối kiểm lại hồ
sơ.
Hắn nhìn tập hồ sơ trên bàn, rồi nhìn ra ngoài sân rất lâu, như
đang suy nghĩ lung về một vấn đề. Tôi cũng nhìn hắn và chợt thấy hắn dễ thương.
Hắn vẫn ngồi im. Tôi hỏi: " Khi lấy cung, người ta có tra tấn và hăm dọa
em không? ". Hắn mở to mắt nhìn tôi. Tôi lại dục: " Em nên kể lại tất
cả sự việc, từ lúc được móc nối cho đến khi bị bắt, bị hỏi cung. Em kể lại hay
không, đó là quyền của em. Em cũng có thể từ chối không nhận tôi là luật sư của
em và chọn một luật sư khác. Đó là quyền của em ".
Hình như tôi còn nói nhiều nữa. Tôi muốn đến gần hắn, tôi muốn
được " hân hạnh " nói chuyện với hắn.
Hắn nhìn tôi, tỏ vẻ dè dặt. Tôi đợi một lúc khá lâu, rồi lại
hỏi: " Tất cả những điều em khai trong hồ sơ đều là sự thật, có phải vậy
không? ". Hắn gật đầu một cách thản nhiên.
Bên ngoài vạt nắng đã thu hẹp lại ở góc tường bao quanh cái sân
nhỏ. Tiếng người gọi đi thăm nuôi, tiếng quát tháo, tiếng chửi thề... đã bắt
đầu thưa thớt. Tôi không đeo đồng hồ, và trong phòng cũng không có đồng hồ,
nhưng tôi đoán lúc đó khoảng 4 giờ chiều, nghĩa là gần hết giờ thăm nuôi phạm
nhân. Riêng tôi, vì là luật sư, tôi có thể nói chuyện với thân chủ cho đến 5
giờ chiều. Khổ một nỗi, thân chủ lại không muốn nói chuyện với luật sư. Tôi đành
phải làm cái công việc bất đắc dĩ của nghề nghiệp, là tóm tắt hồ sơ và đọc
những điểm quan trọng cho thân chủ nghe, để thân chủ hoặc xác nhận, hoặc phủ
nhận.
Hồ sơ hắn dầy gần trăm trang đánh máy, gồm phúc trình của CS và
An Ninh Quân Đội. Cô thư ký của tôi đã chép độ 20 trang quan trọng nhất. Riêng
tôi đã lận đận trọn một ngày ở tòa án Mặt Trận để đọc lại toàn bộ hồ sơ và ghi
chú thêm. Lận đận như vậy, vì lương tâm nghề nghiệp, và cũng vì tò mò nghề
nghiệp. Trong những vụ án chính trị lớn tại miền Nam, tôi từng tiêu hoang thì
giờ tại tòa án, để đọc và suy nghĩ về những lời khai của các bị can. Nhờ đó,
tôi đã biết được cái lý do sâu xa đã khiến văn hào Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam
uống thuốc độc tự vận, một ngày trước khi tòa xử.
Tôi giở hồ sơ hắn ra và bắt đầu đọc:
Hắn sinh tại Gò Dầu Hạ, bố vô danh. Mười lăm tuổi, hắn mồ côi mẹ
và được người chú mang lên làm công cho một tiệm sửa xe Vespa tại đường Trương
Minh Giảng-Sài Gòn. Trong thời gian sống ở Sài Gòn hắn làm quen với một tên Tư.
Tên này " xây dựng " hắn, và gửi hắn vào bưng học tập. Bốn tháng sau,
hắn trở về Sài Gòn hoạt động trong tổ đặc công của tên Tư. Một ngày trước khi
bị bắt, hắn được tên Tư cho đi ăn uống tại một con hẻm đường Nguyễn Huệ. Sau
bữa ăn, cả hai thả bộ ra đường Tự Do để quan sát địa điểm hành động. Đó là một
cái " bar " Mỹ mà hắn đã từng đi ngang qua nhiều lần. Chiều hôm sau,
một buổi chiều thứ Bẩy, tên Tư đem về hai cái bọc, mỗi cái đựng 10 kg thuốc nổ
và bộ phận nổ chậm. Tên Tư gài bộ phận nổ chậm, rồi đặt cái bọc thứ nhất trong
thùng một chiếc Vespa mầu xanh. Cái bọc thứ hai được đặt trong thùng một chiếc
Vespa mầu trắng. Rồi cả hai cùng đi tới địa điểm hành động. Lúc đó, đồng hồ nhà
tên Tư chỉ đúng 5 giờ 15 phút. Hắn cưỡi chiếc xe Vespa mầu xanh, tên Tư cưỡi
chiếc xe mầu trắng, hai xe cách nhau khoảng 200 thước. Hắn có nhiệm vụ phá cái
bar Mỹ đã quan sát chiều hôm trước. Còn tên Tư có nhiệm vụ phá cái bar khác gần
khách sạn Eden Rock ở cuối đường Tự Do. Khoảng 15 phút sau, hắn tới cái bar Mỹ.
Hắn ngừng xe lại, còn tên Tư tiếp tục đi về phía cuối đường Tự Do. Hắn xuống
xe, nhấc chiếc Vespa lên lề đường, rồi dắt chiếc xe về phía cái bar Mỹ. Theo
chỉ thị của tên Tư, hắn có nhiệm vụ đỗ chiếc xe Vespa trước cửa cái bar Mỹ rồi
bỏ đi. Tên Tư cũng cho hắn biết: quả mìn sẽ nổ đúng 6 giờ. Hắn không đeo đồng
hồ. Hắn biết chắc hắn còn nhiều thì giờ, ít nhất là 15 phút để thi hành phận
sự. Hắn lấy chân đạp vào chiếc cần sắt của chiếc Vespa, kéo ngược chiếc Vespa
lên và dựng chiếc Vespa ngay trước cửa bar. Hắn chưa kịp bỏ đi, thì người cảnh
sát đứng bên kia đường thổi còi và ngoắc tay làm hiệu cho hắn phải dắt chiếc xe
đi chỗ khác. Hắn đâm ra lúng túng, và trong lúc hạ cần xe xuống, hắn làm đổ
chiếc Vespa. Hắn hì hục dựng chiếc Vespa lên. Người cảnh sát bên kia đường lại
thổi còi. Hắn đâm ra hốt hoảng. Chiếc Vespa trở nên quá nặng đối với hắn. Hắn
sẽ phải dựng chiếc xe lên. Hắn sẽ phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Và hắn chợt
nhớ tới quả mìn. Quả mìn sẽ nổ banh xác hắn. Hắn không kịp nghĩ thêm gì nữa.
Hắn rầm chạy. Hắn chạy ngược về phía tiệm sơn mài Thành Lễ. Mấy người cảnh sát
bên kia đường rút súng, huýt còi đuổi theo. Và hắn đã bị bắt. Khoảng 20 phút
sau, nhân viên cảnh sát lục soát chiếc xe Vespa và đã tìm thấy quả mìn. Theo
phúc trình của cảnh sát, thì bộ phận nổ chậm bị hư, nếu không, quả mìn đã nổ
vào lúc 5 giờ 50 phút, nghĩa là lúc hắn đang lúng túng với chiếc xe Vespa. Theo
hồ sơ, hắn nhận hết tội, tại nha CS cũng như tại An Ninh Quân Đội, và không một
lần nào phản cung. Hắn có vợ và một đứa con trai 10 tháng.
Tôi đọc hồ sơ rất chậm, chờ đợi ở hắn một phản ứng, một cử chỉ,
một lời nói. Nhưng tôi đã đọc hết dòng chót, mà hắn vẫn ngồi im, mặt cúi gầm
xuống đất. Có lẽ hắn không nghe tôi đọc.
Tôi muốn hỏi hắn về những điểm trong hồ sơ, nhất là về tên Tư
nào đó. Nhưng nhân viên nhà lao đã bước vào cho tôi biết chỉ còn đúng 5 phút
với hắn. Tôi nhìn ra ngoài, thở dài. Vạt sân đã hết nắng. Khi xốc hồ sơ bỏ vô
cặp, tôi vô ý làm rớt tấm ảnh của thằng con trai tôi mới được 8 tháng. Tôi chợt
nhớ ra: hắn cũng có một đứa con trai trạc tuổi đó. Tôi liền hỏi: " Từ ngày
em bị bắt, em đã gặp con chưa? ". Hắn nhìn tôi rất nhanh, đôi mắt vụt trở
nên khẩn thiết. Tôi lại hỏi: " Em có muốn gặp vợ con em không? ". Hắn
túm tím miệng, nuốt nước bọt cái ực, rồi nói một cách vội vàng: " Ông có
giúp tôi được không? ". Tôi gật. Lúc đó hắn mới cho tôi biết: theo lời
khuyên của tên Tư, một tuần trước khi đặt chất nổ, hắn đã cho vợ con về sống
với quê ngoại ở Mỏ Cày. Hắn hy vọng vợ hắn đọc báo đã biết tin hắn bị bắt và đã
đem con lên Sài Gòn ở với người chú. Hắn cho tôi hai địa chỉ ở miệt Cầu Ông
Lãnh, và xin tôi làm mọi cách để vợ con hắn vào thăm hắn trong tù. Hình như hắn
muốn nói nhiều nữa, nhưng nhân viên nhà lao đã bước vào đem hắn đi. Hắn bỗng
nắm chặt bàn tay tôi, cánh tay run run. Hắn nhìn tôi, và tôi thấy mắt hắn ướt.
Chiều hôm ấy, khi ra khỏi nhà lao, tôi lái xe thẳng đến khuôn
viên nhà thờ Đức Bà, gửi xe cho một đứa bé, rồi thuê xích lô đạp về chợ Cầu Ông
Lãnh. Tối mịt, tôi mới ra về. Tôi không tìm thấy vợ con hắn.
Trưa hôm sau, tôi viết hai lá thư, một cho người chú, một cho vợ
hắn, báo tin ngày tòa xử và nhắn vợ hắn đến văn phòng tôi để làm thủ tục xin
giấy đi thăm nuôi chồng. Ký xong bức thư, tôi vào nhà lao báo cho hắn biết về
cuộc tìm kiếm của tôi. Nhưng tôi không được gặp hắn: hắn đã bị trả về An Ninh
Quân Đội để bổ túc hồ sơ. Từ hôm đó đến ngày xử, tôi không có dịp gặp hắn nữa.
Hôm tòa xử, tôi đi rất sớm. Mới 8 giờ sáng tôi đã có mặt ở bến
Bạch Đằng. Khi lái xe vào cổng tòa án Mặt Trận, tôi thấy một thiếu phụ ôm con
ngồi nép ở lối đi, bên cạnh một cái lẵng mây. Không hiểu sao tôi nghĩ đó là vợ
hắn. Tôi đỗ xe trong sân tòa án, rồi đi bộ ra cổng gặp người thiếu phụ. Tôi hỏi
ngay: " Chị là vợ anh Đang? ". Thiếu phụ gật. Tôi hỏi: " Chị
được tin hôm nào? ". Thiếu phụ cho biết: khi đọc báo biết tin chồng bị
bắt, chị muốn lên Sài Gòn ngay, nhưng vì đứa con đau nặng, nên ông bà già không
cho đi. Cách đây bốn hôm, chị nhận được thư của người chú báo tin ngày tòa xử,
vả lại đứa con cũng đã gần hết bịnh, nên ông bà già cho đi.
Tôi nhìn đứa bé nằm ngủ trong lòng mẹ. Da nó xanh mét. Thỉnh
thoảng nó cựa mình rên khe khẽ, người mẹ lại vỗ nhẹ lên người nó để ru. Chị ta
hỏi tôi: " Thưa ông, liệu ảnh có việc gì không? ". Tôi không tìm được
câu trả lời. Tôi nhìn đứa bé rồi hỏi: " Cháu được mấy tháng? ". Chị
ta trả lời: " Con sanh cháu được 10 tháng thì ảnh bị bắt ".
Bỗng có tiếng còi hụ và tiếng người nhốn nháo. Tôi nhìn về phía
đường Bạch Đằng. Một chiếc xe nhà binh đang trờ tới. Đó là xe chở tội nhân.
Những người đứng dưới đường vội vàng dạt ra hai bên để cho xe quẹo vào cổng tòa
án. Khi chiếc xe đi ngang qua, tôi nhìn thấy hắn, và người vợ cũng nhìn thấy
chồng. Chị ta vội vã đứng lên, một tay xách chiếc lẵng mây, một tay ôm con, lễ
mễ chạy vào trong sân tòa.
Đoàn tội nhân đã xuống khỏi xe, đứng xếp hàng giữa sân tòa. Hắn
đứng ở hàng chót, ngơ ngác nhìn quanh như tìm kiếm. Vợ hắn gọi lớn: " Anh
hai, em và con đây nè ". Hắn quay mặt về phía tiếng gọi, và khi trông thấy
vợ hắn, hắn giơ hai tay bị còng lên như muốn ôm ghì một hình bóng. Vợ hắn đứng
cách xa hắn chỉ một khoảng sân nhỏ. Chị ta bỏ chiếc lẵng mây xuống đất, ôm con
xăm xăm chạy về phía hắn. Nhưng người lính đã ngăn chị ta lại, rồi ra lệnh cho
đoàn tội nhân đi vào hành lang. Đây là một lối đi lộ thiên, nằm giữa hai bức
tường của hai dãy nhà quay lưng vào nhau. Người ta dùng chỗ đó để tạm giữ tội
nhân, trong khi chờ tòa gọi tội nhân ra trước vành móng ngựa.
Hắn ngồi hàng chót, nép vào chân tường. Tay hắn đã được mở còng.
Vợ hắn lễ mễ ôm con lại gần. Người lính định cản lại, nhưng thấy tội nghiệp,
nên đã để cho đi qua.
Tôi chỉ kịp trông thấy người đàn bà ngồi thụp xuống đất bên cạnh
người chồng rồi khóc nức nở. Hắn không khóc, mở to mắt nhìn về trước mặt, một
tay để lên vai vợ, một tay vuốt tóc con. Lúc sau người vợ lấy vạt áo lau nước
mắt, rồi lấy ở trong lẵng ra một xị nước ngọt đựng trong túi nylon đưa cho
chồng: " Anh uống đi cho đã khát, em có mua cho anh ổ bánh mì thịt ở trong
lẵng ". Hắn rời tay khỏi vai vợ, đỡ lấy túi nước ngọt đưa lên môi, nhưng
tay kia vẫn sờ trên mình đứa con, đôi mắt dịu hẳn xuống. Trong một lúc tình cờ,
hắn ngẩng đầu lên. Hắn nhìn thấy tôi đứng bên kia tường. Tôi giơ tay làm hiệu
chào hắn.
Chỉ còn độ một hai giờ nữa, tòa sẽ kêu đến vụ hắn. Tôi muốn nói
chuyện với hắn. Nhưng tôi không nỡ làm bận rộn cuộc xum họp mà tôi linh cảm là
cuộc xum họp lần chót. Tôi thở dài ái ngại, rồi bỏ đi ra phía sân tòa. Thời
gian như chậm lại. Hắn, con hắn, vợ hắn, lởn vởn trong đầu tôi. Làm thế nào để
cứu hắn khỏi chết? Làm thế nào để tòa án hiểu rằng: hắn, cũng như Nguyễn Văn
Trỗi, cũng như bao thanh thiếu niên khác, chỉ là nạn nhân đáng thương của một
hệ thống đểu cáng và vô nhân đạo nhất lịch sử loài người.
Mãi mười một giờ trưa, tòa mới kêu đến tên hắn. Hắn từ hành lang
đi ra, bên cạnh hai người lính. Vợ hắn lễ mễ ôm con theo từ đằng xa, rồi ngồi
xuống một chiếc ghế cuối phòng xử. Phòng xử hôm đó đông nghẹt dân chúng. Bên
ngoài, trời oi ả như sắp có cơn dông.
Trước vành móng ngựa, hắn nhỏ bé và non nớt hơn cái hôm tôi gặp
hắn trong nhà lao. Da hắn xanh mướt, và nét mặt thản nhiên. Tôi đến bên hắn,
hắn quay lại nhìn tôi một thoáng rồi lại nhìn thẳng đàng trước mặt. Không khí
nặng nề. Cả phòng xử im lặng. Ông chánh thẩm hỏi lý lịch, rồi truyền cho hắn
trở về ghế bị can để nghe bản cáo trạng. Tôi cũng từ vành móng ngựa đi theo
xuống ngồi bên cạnh hắn. Hắn xích lại gần, như để tỏ lòng biết ơn. Viên lục sự
bắt đầu đọc bản cáo trạng, tiếng ông ta vang lên đều đều. Cả tòa, từ ông chánh
thẩm, ủy viên chính phủ, đến công chúng ngồi dưới, đều lắng tai nghe. Chỉ có
hắn là không. Hắn nhìn đăm đăm đàng trước mặt, như đang suy nghĩ. Có lẽ hắn nghĩ
tới vợ con hắn. Một lần, tôi chợt thấy hắn quay đầu lại nhìn xuống cuối phòng
xử, như muốn tìm xem vợ con hắn ngồi ở đâu. Bỗng nhiên, mặt hắn biến sắc, tay
hắn run run, đầu cúi rầm xuống.
Viên lục sự đã đọc xong bản cáo trạng. Hắn rời ghế bị can, rồi
cùng tôi bước lên vành móng ngựa.
Ông chánh thẩm hỏi: " Anh đã nghe bản cáo trạng. Anh bị cáo
về tội phản nghịch và mưu sát. Anh có nhận tội không? ". Hắn gật đầu.
- Anh có thể kể lại cho tòa nghe tất cả sự việc từ đầu đến cuối
không?
Hắn nhìn ông chánh thẩm, nhìn bồi thẩm đoàn, nhìn ủy viên chính
phủ, nhìn tôi, rồi lắc đầu.
Ông chánh thẩm lại hỏi: " Có phải anh đã đỗ chiếc Vespa
trước cái bar Mỹ? ". Hắn gật.
- Anh có biết chiếc Vespa có chất nổ không?
Hắn gật.
- Anh đỗ chiếc Vespa trước cửa bar, để phá cái bar đó, có phải
không?
Hắn gật.
- Tên Tư bao nhiêu tuổi, vóc dáng như thế nào?
Hắn đứng im không trả lời.
Ông chánh thẩm nhìn tôi, tôi nhìn ông ta. Một bên ở vào cái thế
khó xử, một bên ở cái thế khó cãi. Đại tá Ủy viên Chính Phủ bỗng quát lớn:
" Tại sao bị can không trả lời? ". Hắn ngước mắt nhìn ủy viên chính
phủ, rồi đứng im như pho tượng.
Khi tòa trao lời cho ủy viên chính Phủ chính thức đặt câu hỏi,
thì ủy viên chính phủ nhún vai, như muốn nói với tòa rằng ông không có gì để
hỏi một bị can chỉ biết gật với lắc đầu. Nhưng chỉ một vài giây sau, ông nói
như hét: " Thằng Tư, tên thật nó là gì. Địa chỉ nó ở đâu? ". Hắn lại
nhìn ủy viên chính phủ rồi im lặng. Một lần nữa, ủy viên chính phủ lại nhún vai
và làm cái cử chi quen thuộc để tòa hiểu rằng ông ta không còn gì để hỏi nữa.
Đến lượt tôi đặt câu hỏi. Tôi hỏi hắn: " Khi bị lấy cung
tại nha CS và An Ninh Quân Đội, em có bị tra tấn hoặc bị hăm dọa không? ".
Hắn lắc đầu. Tôi lại hỏi: " Em có hối hận vì đã trót nghe lời dụ dỗ của
tên Tư không? ". Hắn cúi gầm mặt xuống lắc đầu.
Tôi đã đưa ra hai cây sào để cứu hắn. Không ngờ hắn đã từ chối
không nắm lấy và hình như còn thích thú để cho nước cuốn trôi đi. Nước mắt
người vợ và tình thương con đã không làm hắn thay đổi. Một đời luật sư, tôi
từng ngang dọc trong những vụ kiện lớn của chế độ, nhưng chưa bao giờ tôi cảm
thấy mình bất lực như hôm nay.
Ủy viên Chính Phủ đứng lên buộc tội. Trong 15 phút hùng biện,
ông gay gắt lên án bị can. Ông nhấn mạnh đến trường hợp quả tang phạm pháp, đến
bản chất của tội trạng (phản nghịch và mưu sát) và sự ngoan cố của bị can. Ông
kết luận: " Trong cuộc đấu tranh chống lại bọn cộng sản " kẻ thù của
dân tộc " chúng ta cần phải nghiêm trị những bọn phá hoại, những tên cán
bộ nằm vùng, những tên đặc công khủng bố giết người không gớm tay. Nếu hôm đó
quả mìn nổ, bao nhiêu dân chúng qua đường đã bị chết thảm, bao nhiêu người dân
vô tội đã bị què cụt đui mù... ". Ông yêu cầu tòa lên án tử hình. Tòa trao
lời cho tôi. Trách nhiệm của tôi quá lớn, và nhiệm vụ của tôi quá khó khăn. Tôi
biện hộ cho một bị can phạm tội phản nghịch và mưu sát với trường hợp gia
trọng. Bị can ấy nhận tội tại nha CS, tại An Ninh Quân Đội, và trước tòa án. Bị
can ấy từ đầu đến cuối không lúc nào phản cung. Bị can ấy từ chối không trả lời
tòa án, không trả lời ủy viên chính phủ, không trả lời luật sư. Bị can ấy im
lặng tuyệt đối, như để bảo mật cái tổ đặc công giết người của hắn, theo một
mệnh lệnh... Giọng tôi trầm trầm. Tôi nói, hình như không phải cho tòa nghe, mà
cho chính tôi nghe. Tôi nói, để cố trả lời cho những câu hỏi mà chính tôi đang
thắc mắc. Tại sao hắn không có một lời để tự bào chữa? Tại sao hắn đã nhận tội
một cách thản nhiên, và không một lần nào phản cung, trong hồ sơ cũng như trước
tòa án? Hắn là một tên đặc công bị bắt quả tang trong khi đặt chất nổ, chắc
chắn hắn đã bị tra tấn của công an trong khi lấy cung. Tại sao hắn không nói
điều ấy ra trước tòa? Và tên Tư? Tên Tư là ai? Tại sao hắn lại im lặng không
chịu cung khai về tên Tư? Tại sao hắn lại từ chối không trả lời những câu hỏi
có lợi cho hắn?
Không ai muốn chết. Không ai muốn bị hành hình. Không ai muốn bị
đập chết như một con chó ở góc tường, như những nhân vật trong tiểu thuyết
Kafka. Huống chi, hắn mới 21 tuổi, có vợ, có con, và thương vợ thương con. Thế
thì tại sao hắn lại im lặng? Chỉ có một câu trả lời. Hắn bị quyến rũ phạm tội
ác, và sau khi bị bắt, hắn vẫn bị theo rõi. Hắn sợ vợ con hắn bị trả thù, hắn
đã phải im lặng, tuyệt đối im lặng. Biết đâu trong phòng xử hôm nay, lại không
có tên Tư nào đó đang ngồi theo rõi hắn. Hướng về phía ông Ủy viên Chính Phủ,
tôi nói như tâm sự: " Tôi đồng ý với ông là chúng ta, những người quốc
gia, phải thẳng tay trừng trị, nếu cần, phải giết những tên đặc công gian manh,
những tên cán bộ khát máu, những tên đặc công giết người không gớm tay. Nhưng
trong hiện vụ, tôi không nghĩ bị can là một tên cộng sản gian manh, một tên cán
bộ khát máu, một tên giết người không gớm tay. Và đây là điểm cực kỳ quan
trọng: quả mìn hôm ấy đã không nổ ".
Kết luận, tôi yêu cầu tòa khoan hồng. Bị can mới hai mươi mốt
tuổi, chưa hề can án, có vợ còn trẻ và con còn nhỏ, vì vậy đáng được hưởng sự
khoan hồng của luật pháp.
Sau lời biện hộ của tôi, tòa hỏi hắn: " Luật sư đã biện hộ
cho anh rồi. Anh có quyền nói lời chót. Anh muốn nói gì không? ". Hắn lắc
đầu. Tòa ngưng xử, bước vào phòng để nghị án. Khoảng một giờ sau, tòa trở lại
tuyên án: tử hình. Lập tức, hắn bị còng tay mang đi. Lúc đó, đã quá trưa, những
đám mây đen từ đâu kéo về bao kín cả một góc trời đã mất ánh sáng. Dân chúng
kéo nhau ra về. Tôi xách cặp đi ra xe như người mất hồn. Khi lái xe qua cổng
tòa án, tôi thấy vợ hắn ôm con ngồi khóc. Tôi về văn phòng, viết đơn xin ân xá
cho hắn. Đây chỉ là thủ tục tòa án, nhưng tôi đã làm với tất cả sự cẩn trọng
của một lễ nghi tôn giáo. Tôi muốn cứu hắn khỏi chết. Vì nhân đạo. Vì nghề nghiệp.
Và cũng vì trường hợp cá biệt của hắn.
Hắn khác Nguyễn Văn Trỗi. Nguyễn Văn Trỗi khóc lóc van xin trước
tòa, và sau khi bị tòa lên án tử hình, Trỗi đã hô lớn " Hồ Chí Minh muôn
năm ". Hô xong lại khóc, lại van xin. Còn hắn, hắn nín thinh. Không khóc lóc,
không van xin, không hô khẩu hiệu.
Hắn khác Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Hữu Thọ huênh hoang và cao ngạo
trước tòa. Hắn chịu đựng, nhẫn nhục, đến độ gần như khắc kỷ. Tôi nghĩ đến con
chó sói trong bài thơ " La Mort du Loup " của thi hào Vigny.
Ba tháng đã trôi qua. Bức thư của tòa án Mặt Trận mà trung sĩ Ân
đưa cho tôi chiều hôm nay chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ đánh máy: " Trân trọng
báo để luật sư tường: đơn xin ân xá của Trần Văn Đang đã bị bác. Ngày mai, hồi
5 giờ sáng, bản án tử hình sẽ được thi hành. Nếu luật sư muốn hiện diện nơi
hành quyết, thì xin có mặt tại khám Chí Hòa vào lúc 4 giờ sáng. Trân trọng
".
Suốt đêm, tôi trằn trọc không ngủ, đầu óc lởn vởn khuôn mặt của
hắn, và hình ảnh của hắn ngồi trong hành lang tòa án, một tay để lên vai vợ,
một tay sờ lên mình đứa con. Chưa đầy 3 giờ sáng, tôi đã thức dậy, đi vào khám
Chí Hòa. Tôi bước vào phòng đợi, đã thấy một nhà sư gầy gò mặc nâu sòng đang
ngồi lần chuỗi hạt. Viên quản đốc nhà lao cho tôi biết: nhà sư đã đến trước tôi
cả nửa giờ. Lát sau, một linh mục béo tốt bước vào, trong bộ quân phục thiếu tá
tuyên úy. Bốn giờ ba mươi phút, ủy viên chính phủ đến. Rồi đoàn người, gồm viên
quản đốc nhà lao, ủy viên chính phủ, luật sư, và hai vị tuyên úy, lặng lẽ đi
vào một căn phòng rộng. Thường nhật, đây là chỗ điểm danh tội nhân. Hắn đã ngồi
đó từ bao giờ, bên cạnh cái bọc quần áo. Ánh sáng vàng bệch của ngọn đèn cáu
bụi trên trần nhà phả xuống bốn bức tường trắng xóa. Tôi chợt có ý nghĩ kỳ lạ
là đang bước vào căn nhà xác của bệnh viện. Đoàn người tiến lại gần hắn. Hắn
đứng dậy, đôi mắt như dò hỏi. Một phút im lặng, dài như một ngày. Đại tá ủy
viên chính phủ trịnh trọng nói với hắn: " Anh hãy cam đảm lên, và nghe tôi
đọc ". Rồi ông lớn tiếng đọc bản án tử hình và bản quyết định bác đơn xin
ân xá của hắn. Hắn cúi đầu nhìn xuống sàn nhà, đôi mắt mở to. Người hắn run
lên. Nhưng chỉ giây lát, hắn lấy lại bình tĩnh. Hắn hỏi: " Bao giờ người
ta xử tôi? ". Viên quản đốc nhà lao để tay lên vai hắn: " Ngay sáng
hôm nay, trước khi mặt trời mọc ". Rồi ông thân mật nói với hắn: "
Bây giờ em muốn ăn uống gì không, khám đường sẽ chu tất cho em ? ". Hắn
lắc đầu.
Lúc đó, không ai bảo ai, mỗi người nói với hắn một vài câu an
ủi. Không khí trở nên thân mật và âu yếm như trong một cuộc tiễn đưa. Riêng tôi
chỉ nhìn hắn, tôi muốn nói chuyện riêng với hắn; đó là quyền của tôi, quyền của
luật sư biện hộ. Ủy viên chính phủ đồng ý, và cho tôi biết: tôi có 5 phút. Rồi
đoàn người bước ra khỏi phòng, để một mình tôi với hắn. Người cuối cùng đã bước
ra khỏi phòng. Hắn nắm lấy tay tôi, và nhìn tôi rất lâu, đôi mắt ướt sũng. Tôi
hỏi: " Em có muốn nói nhắn với vợ em điều gì không? ". Hắn suy nghĩ
giây lát, rồi nói: " Em bị chúng nó lừa. Luật sư có gặp vợ em, thì bảo
đừng ở dưới vườn nữa, và nuôi lấy con ". Tôi hỏi: " Em chết, có điều
gì oán hận không? ". Hắn không trả lời. Tôi an ủi hắn: " Người ta, ai
cũng phải chết một lần, đời sau mới là quan hệ. Em theo đạo nào? ". Tôi là
người Công giáo. Tôi ước ao hắn dành một vài phút để nghĩ đến Thượng Đế và tình
thương bao la của Người. Nhưng ủy viên chính phủ đã bước vào nói nhỏ: "
Luật sư hết giờ rồi ". Rồi ông thân mật hỏi hắn: " Ở đây có hai vị
tuyên úy em muốn nói chuyện với ai? ". Hắn nhìn nhà sư mặc áo tu hành, hắn
nhìn vị linh mục mặc quân phục thiếu tá, rồi xin được nói chuyện với nhà sư.
Tôi cúi đầu theo ủy viên chính phủ và vị linh mục đi ra một góc phòng. Nhìn về
phía hắn, tôi thấy nhà sư cúi đầu tụng kinh, và hắn cũng cúi đầu như lắng tai
nghe kinh. Khoảng khắc, nhà sư ngẩng đầu lên, đặt tay lên vai hắn, trong một cử
chỉ vỗ về bao dung. Lúc đó, đồng hồ trên tường chỉ đúng 5 giờ sáng, giờ khởi
hành. Người ta xúm lại chung quanh hắn, mỗi người nói với hắn một câu chân
tình. Hắn như chợt nhớ ra, xin phép được thay quần áo. Một cảnh sát viên chạy
lại cầm cái bọc quần áo đưa cho hắn. Hắn mở bọc, lấy ra một chiếc sơ mi cụt mầu
xám, và một chiếc quần vải dragon đen đã bạc mầu. Khi hắn quay mặt vào tường để
thay quần áo, tôi nhìn thấy những lằn roi trên da thịt xanh xao của hắn. Thay
xong quần áo, hắn xin một điếu thuốc. Viên quản đốc nhà lao mỉm cười, rút trong
túi ra một bao thuốc lá Ách Chuồn. Ông ta trịnh trọng lấy ra một điếu, dộng
dộng trên ngón tay cái, rồi đưa cho hắn. Hắn ngậm điếu thuốc, và được viên quản
đốc châm lửa. Lúc đó, nhân viên an ninh đến. Hắn ngoan ngoãn đưa hai tay chụm
ra đằng trước để người ta còng. Rồi đoàn người lặng lẽ đi ra. Hắn đi đầu, thản
nhiên bước qua từng đợt cửa, thỉnh thoảng dùng hai tay còng đưa điếu thuốc lên
môi. Khi đoàn người ra tới sân nhà lao, điếu thuốc gần lụi, và hắn buông rơi
xuống đất. Hắn bước lên chiếc xe bít bùng, đầu hơi cúi xuống. Cửa xe đóng sập
lại. Tôi lên xe riêng, lái thật nhanh ra khỏi nhà lao.
Chiếc xe của tôi lầm lũi đi trong đêm, ánh đèn pha chiếu dài cả
con đường Hòa Hưng, rồi đường Lê Văn Duyệt. Thành phố Sài Gòn đang trở mình
thức giấc, một vài gánh hàng đi nép bên lề đường. Và đó đây, có tiếng động cơ
quen thuộc của những chiếc xe Lam dậy sớm. Tới bùng binh chợ Bến Thành, tôi đã
thấy một đám đông bu quanh vùng ánh sáng của pháp trường cát. Những phóng viên
ngoại quốc chạy nhốn nháo, với máy ảnh và máy quay phim. Cảnh sát chận xe tôi
lại. Khi nhìn thấy chiếc áo đen của tôi, họ dẹp đám đông cho xe tôi tiến vào.
Tôi đỗ xe sát chân tường Nha Hỏa Xa, cách pháp trường cát độ 30 thước. Những
ngọn đèn pha cực mạnh đã được đặt tại đó chiều hôm trước. Tất cả đều chiếu vào
pháp trường cát, tạo nên một vùng ánh sáng rợn người. Một chiếc cọc đen đứng cô
đơn, đằng sau là những bao cát chất thành vòng cung. Cách đó 3 thước, là chiếc
quan tài đậy nắp, trên nắp có một tấm vải trắng. Xa nữa là chiếc xe chữa lửa.
Tôi đứng trong vòng ánh sáng chưa được 10 phút thì nghe tiếng
còi hụ. Người ta chạy nhốn nháo. Tôi háy mắt nhìn về phía tiếng còi hụ, thì
thấy đoàn xe chở tội nhân đang tiến tới. Chiếc xe bít bùng đỗ lại bên lề đường.
Lát sau hắn bước xuống khỏi xe. Tôi vội choàng lên người chiếc áo đen, chạy ra
với hắn. Hắn và tôi đi đầu, theo sau là đoàn áp giải. Hắn bước đều đều, mặt cúi
xuống đất. Dân chúng bu nghẹt chung quanh, chỉ chừa một lối đi được ngăn giữ
bằng hàng rào an ninh. Bây giờ chúng tôi đã bước vào vùng ánh sáng. Hắn bỗng
ngửng đầu lên, và đứng khựng lại. Người lính đằng sau lấy tay đẩy nhẹ vào lưng
hắn, hắn lại tiếp tục bước đi. Tôi đoán chiếc quan tài và chiếc khăn liệm đã
làm hắn khựng lại. Hình ảnh trung thực của chiến tranh không được tìm thấy ở chiến
trường " da ngựa bọc thây ", mà được tìm thấy trong các bệnh viện,
nơi đó có những hình hài cụt chân cụt tay, những đống thịt bầy nhầy, những hố
mắt sâu thẳm, những cuốn băng bê bết máu, và những tiếng rên rỉ đau đớn. Và
hình ảnh trung thực của cái chết vẫn là chiếc quan tài, tấm khăn liệm và những
người thân yêu tiễn đưa. Bây guờ, hắn và tôi đã bước vào trong vòng những bao
cát. Người ta mở còng, rồi giữ ghì lấy hai cánh tay hắn, đẩy hắn dựa lưng vào
chiếc cọc sắt. Hai cổ chân hắn bị cột chặt vào thân cọc, hai cánh tay hắn bị
kéo ngược ra đằng sau, cột ngược vào một cái cọc ngang. Chiếc cọc ngang này hơi
cao, hắn phải kiễng chân lên. Hắn nhăn mặt kêu đau. Tôi nói với viên sĩ quan:
" Đằng nào tội nhân cũng sắp chết, ông nên cho hạ thấp chiếc cọc ngang
xuống, kẻo máu bị ngừng ở nơi nách, tội nghiệp ". Viên sĩ quan gật đầu, hạ
thấp chiếc cọc ngang xuống. Hắn nhìn tôi, và lần đầu tiên hắn nói: " Cám
ơn luật sư ". Lúc đó, đội hành quyết đã sắp hàng chỉnh tề, chỉ còn đợi sĩ
quan Quân Trấn Trưởng của Quân khu Sài Gòn đến là khởi sự. Một phút, hai phút,
rồi ba phút... Cả pháp trường im lặng, trong sự đợi chờ và trong ánh sáng chói
chang.
Chỉ còn mình tôi đứng bên cạnh hắn. Hắn bỗng trăn trối: "
Em đã bị chúng nó lừa. Luật sư nhớ bảo vợ em đừng ở dưới vườn, đừng nghe theo
chúng nó và gắng nuôi con ". Tôi gật đầu. Hắn nấc lên: " Con ơi, Cảnh
ơi, Cảnh ơi ". Tiếng nấc của hắn làm tôi mủi lòng. Tôi để tay lên vai hắn,
định an ủi, nhưng cổ họng bị tắc nghẽ. Tôi chợt nghĩ đến linh hồn hắn. Tôi thì
thầm bên tai hắn: " Em hãy ăn năn hối cải, và cầu xin Chúa giúp em chết
lành. Em chết, nhớ phù hộ cho vợ con em ". Hắn lại nấc lên: " Con ơi,
con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi ". Lúc đó, có tiếng còi hụ. Quân Trấn Trưởng đến.
Đội hành quyết đứng nghiêm. Người ta bịt mắt hắn. Hắn vẫn nấc, vẫn gọi tên con.
Có tiếng lên đạn đàng sau lưng tôi. Ủy viên chính phủ nói lớn: " Xin ông
luật sư đứng tránh xa ra một bên ". Tôi đi giật lùi ngang về phía bên
trái, mắt không rời hắn. Miệng hắn vẫn lắp bắp gọi tên con. Một tiếng hô. Một
loịat đạn nổ. Đầu hắn ngoẹo xuống, gục về bên trái. Máu từ trong người hắn chảy
róc xuống đùi, xuống chân, rồi bò ngoằn ngoèo trên lề đường. Viên đội trưởng
hành quyết tiến lại, nắm tóc kéo ngược đầu hắn về phía sau, dí khẩu súng lục
vào màng tang bên trái của hắn, bắn phát súng ân huệ. Một tiếng " đẹt
" khô khan. Người ta vội vàng liệm xác hắn, và chiếc vòi nước của chiếc xe
chữa lửa vội vã phụt sạch những vết máu trên lề đường. Phương Đông, chân trời
đã bắt đầu hừng đỏ.
Tối hôm đó, đài phát thanh Hà Nội mặc niệm hắn, hết lời ca tụng
cái chết anh hùng của hắn. Đài phát thanh Hà Nội nói rõ ràng: từ lúc bị trói
vào cọc cho đến lúc bị hành quyết, hắn đã noi gương anh hùng Nguyễn Văn Trỗi,
không ngớt đả đảo Mỹ Ngụy và hô to khẩu hiệu " Hồ Chí Minh muôn năm
".
Nguyễn Văn Chức
Chú thích (của luật sư Nguyễn Văn Chức):
Dưới đây là những chi tiết liên quan đến vụ Trần Văn Đang. Bị
can sinh năm 1942 tại Vĩnh Long, bị bắt ngày 30 tháng 3 năm 1965 trong khi đặt
chất nổ, bị đem ra tòa án Mặt Trận hai tuần sau, và bị bắn tại pháp trường cát
bùng binh chợ Bến Thành sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965.
Chánh thẩm xử án là đại tá Phan Đình Thứ (tức Lam Sơn), linh mục
tuyên úy Công giáo tên Thông, nhà sư tuyên úy Phật giáo là đại đức Sĩ. Quân
Trấn Trưởng là đại tá Giám.
Nguyễn Văn Trỗi bị bắt ngày 9 tháng 5 năm 1964, trong lúc đặt
bom ở gầm cầu Công Lý, chờ ám sát phái đoàn của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mc
Namara. Y bị toà án Vùng 3 Chiến Thuật xử tử hình. Trước toà, y khóc lóc, chửi
bọn xúi y đi ôm bom là bọn " chó đẻ ", và xin toà tha tội. Khi toà tuyên
án tử hình, y hô to Hồ Chí Minh muôn năm. Hô xong y lại khóc và xin toà tha.
Năm 1993, tôi (luật sư Nguyễn Văn Chức) có đọc cuốn " Chung
Một Bóng Cờ " do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia (Hà Nội) ấn hành, gồm
những bài viết của Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Văn Đồng... Cuốn sách
đã dành một trang để nói về cái chết của Anh Hùng Trần Văn Đang. Xin trích một
vài dòng cuối: " Sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965 lúc 5 giờ 52 phút, Mỹ và
chính quyền Sài Gòn đem anh ra xử bắn tại pháp trường cát, với hy vọng có thể
khủng bố được tinh thần nhân dân Sài Gòn. Nhưng chúng đã lầm. Trước đông đảo
đồng bào và phóng viên trong và ngoài nước đang tụ tập dọc đường Hàm Nghi và
chợ Bến Thành, vừa bước xuống xe, Trần Văn Đang dõng dạc nói lớn: Hỡi đồng bào
chợ Bến Thành, hỡi đồng bào Sài Gòn thân yêu, tôi là Trần Văn Đang đây, chiến
sĩ giải phóng, tôi đánh Mỹ để giải phóng dân tộc... Đả đảo đế quốc Mỹ... đả đảo
tập đoàn tay sai bán nước. Ngay sau khi súng đã nổ, anh vẫn không ngừng hô to
Hồ chủ tịch muôn năm, đả đảo đế quốc Mỹ " (trích trong Chung Một Bóng Cờ).
No comments:
Post a Comment