KHI SÂN KHẤU TÍN NGƯỠNG HẠ MÀN
Nhạc sĩ Tuấn Khanh
28/3/2019
Có thể thấy rằng vụ bê bối chùa Ba Vàng đang được dàn xếp rất nhanh, gói ghém lại mọi thứ, với mục đích không để công luận xoáy vào và tìm hiểu thêm. Trên website của chùa, hình ảnh liên quan với các quan chức nhà nước cấp cao đã được gỡ sạch trong một đêm. Các quyết định trừng phạt cá nhân nhanh chóng được đưa ra, cùng với việc trụ trì Thích Trúc Thái Minh trở nên im lặng, cho thấy từ bên trên chính quyền đã có một quyết định chung cuộc.
Tất cả những điều đó, như đang muốn chặn đứng câu hỏi dồn dập từ quần chúng “ai bảo kê cho chùa này?”, “ai đầu tư kiếm lợi từ chùa?” và số tiền khổng lồ hàng năm không có thuế, chỉ nằm trong két sắt của chùa, hay còn được chuyển vào tài khoản của quan chức nào khác?
Làm tiền, lũng đoạn tinh thần tín ngưỡng của quần chúng và âm mưu làm băng hoại hình ảnh Phật giáo, là những gì đang diễn ra ở Việt Nam. Chùa Ba Vàng chỉ là một điểm trong tấm bản đồ dày đặc chạy dài suốt Việt Nam. Nên nếu để thông tin tự do lan tràn và đào sâu, chuỗi mạo danh nhà Phật này sẽ bị bóc trần toàn bộ.
Sự kiện chùa Ba Vàng, Quảng Ninh gợi nhớ về những sự kiện tương tự ở người đàn anh vô thần Trung Quốc. Năm 2015, sư trụ trì Shi Yongxin, người được biết đến như là một “CEO Thượng tọa” cho việc kinh tài của Thiếu Lâm Tự, bị tố giác là lạm dụng tiền bạc trong nguồn thu khổng lồ của chùa này, cũng bao gồm từ việc cúng sao, giải hạn, cầu an, bán vé vào cửa… Theo cáo giác, chỉ trong năm 2015, chỉ riêng việc bán vé vào tham quan chùa thôi, với 100 nhân dân tệ/người, Thiếu Lâm Tự đã thu về khoảng 7,3 triệu USD.
Nhưng sự việc không ngừng ở đó, khi mọi chuyện đổ bể, người ta biết được Thiếu Lâm Tự chỉ giữ lại được có 1 phần 3 số tiền đó. Phần còn lại thì được chia cho quỹ đen của chính quyền địa phương. Trong bài phân tích có tựa đề The decline and fall of Chinese Buddhism – how modern politics and fast money corrupted an ancient religion (tạm dịch: Sự suy tàn và sụp đổ của Phật giáo Trung Quốc – làm thế nào mà chuyện chính trị và làm tiền nhanh đã hủy hoại một tôn giáo có từ ngàn xưa) của tác giả Mimi Lau, đăng trên tờ SMCP, tháng 9/2018, có nói rõ rằng Thiếu Lâm Tự cũng như hàng ngàn ngôi chùa mới được xây dựng ở Trung Quốc, luôn có một hội đồng điều hành, mà trong đó các đảng viên CS, quan chức nhà nước cùng tham gia.
Một nghiên cứu của giáo sư Zhe Ji, từ Viện Ngôn ngữ và Văn minh phương Đông ( Institut National des Langues et Civilisations Orientales) tại Paris, cho thấy ở nhiều chùa, thủ quỹ là người được chính quyền địa phương chỉ định. Chi tiêu riêng cho chùa phải trình lên, trụ trì cũng không được tự quyết”.
Dĩ nhiên, giờ đây, buôn bán thánh thần, và diễn đạt tín ngưỡng dưới ngọn cờ tam vô của chủ nghĩa cộng sản, là những nơi có thể làm ra tiền nhanh và nhiều đến mức chóng mặt.
Cách đây 10 năm, chính quyền Bắc Kinh tìm ra đủ các phương thức mà quan chức tham nhũng giấu hay chuyển tiền đi. Nhưng từ khi việc đầu tư vào xây chùa, đền thờ, dựng lễ hội ra đời… là cách thức rửa tiền nhanh và hợp pháp nhất mà quan chức đích thân ra tay, hoặc núp bóng dưới các công ty đầu tư du lịch. Đó là lý do vì sao, chính quyền Bắc Kinh với chính sách nhất quán thù ghét tôn giáo, nhưng lại cho phép xây dựng hàng ngàn chùa, đền, tượng Phật lớn kỷ lục… trong suốt 3 thập niên.
Nói về tốc độ xây dựng chùa, đắp tượng lớn, theo thống kê của Giáo hội Phật giáo quốc doanh Việt Nam, từ năm 1997, đến năm 2007, cơ sở thờ tự Phật giáo chỉ tăng lên vài trăm (từ 14.048 ngôi, lên 14.777 ngôi). Nhưng vào thời gian gần đây, từ 2007 đến 2017, đã có đến 18.466 ngôi. Con số tăng trưởng này, giải thích phần nào tình trạng đột phát các chùa tranh nhau gây quỹ, thu tiền, bịa đặt các nghi thức đắm đuối mê tín… Ghê sợ hơn, qua việc tập hợp đám đông, những nơi như vậy còn dẫn dụ đám đông quên đi hiện thực điêu tàn của đất nước, chia rẽ tôn giáo và thậm chí còn hủy hoại cả lòng yêu nước trước ngoại bang.
Một điều dễ thấy của đạo pháp – xã hội chủ nghĩa, là chính quyền không chủ trương tạo ra những bậc cao tăng, những bậc trí giả Phật giáo để giác ngộ chúng sinh, mà chỉ tạo ra đám đông mặc áo sư cùng chuông đồng và nhang khói. Bởi bản chất của chính quyền tam vô luôn lo sợ các bậc trí giả đó sẽ hướng chúng sanh đi vào chính đạo. Theo tài liệu của nhà nghiên cứu Mimi Lau, Trung Quốc vĩ đại chỉ có 240.000 đại đức, nhưng hơn phân nửa là từ Tây Tạng. Quốc gia rộng lớn này thu tiền vô kể từ Phật giáo, nhưng chỉ có 41 trường đào tạo Phật học, nhưng người đến học thì bị kiểm soát chặt bởi Ban tôn giáo Chính phủ (State Administration of Religious Affairs). Ngay tại Việt Nam, sau 44 năm thống nhất địa lý, nhà nước cộng sản Việt Nam đã không thể có được những bậc trí giả Phật giáo như Tuệ Sỹ, Thích Nhất Hạnh, Lê Mạnh Thát…
Phía sau sự phát triển Phật giáo như một cách kiếm tiền nhanh và lũng đoạn quần chúng là gì? Các nghiên cứu từ Trung Quốc cho thấy nhiều trụ trì vì ganh tị với cách kiếm tiền của nhau, lại dựa thế có có các quan chức hay giới tài phiệt đỏ chống lưng, nên vẫn tìm cách hãm hại, đạp đổ nhau.
Cũng là chùa dựa vào mê tín, vòi tiền tín hữu… nhưng Thích Thanh Quyết lại mạnh miệng chỉ trích Thích Trúc Thái Minh. Phía sau của Thích Thanh Quyết là một vị thế chính trị vững chắc hơn, đang hậu thuẫn chăng? Thật khó đoán. Nhưng điều có thể nhìn thấy ngay lúc này, là những kẻ giả sư, giả đạo đang đẩy dân tộc và đất nước vào con đường như điên như dại. Sân khấu tín ngưỡng ấy, cũng đang hạ màn như qua một cuộc giải vong.
Tuấn Khanh
——-
Những điểm sa lầy tương đồng, giữa Phật giáo quốc doanh và Việt Nam
Nhạc sĩ Tuấn Khanh
27/03/2019
LkL: Đọc thêm link dưới comment Lam mới search để thấy Phật giáo TQ cũng bị lũng đoạn tương tự ra sao (The decline and fall of Chinese Buddhism: how modern politics and fast money corrupted an ancient religion)
(Nhà Nam Media) Tương tự như Trung Quốc, mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và Phật giáo tại Việt Nam hết sức phức tạp. Đó là mối quan hệ lợi dụng qua lại lẫn nhau, mà các nhà phân tích xã hội gọi đó là bài tính có kết quả tổng bằng không cho cả hai bên. Bởi những người trung thành với lý thuyết Cộng sản dần dà tự tìm đến Phật giáo để tự chữa lành phần tinh thần trống rỗng của mình, một mô hình tín ngưỡng duy nhất được cho phép tồn tại đại chúng trong nền chính trị vô thần. Và ngược lại, những người mộ đạo thuần khiết thì dần dần tự rời bỏ không gian Phật giáo quốc doanh, vì nhận ra rằng đó chỉ là một trò mua bán tinh thần được dựng nên bằng tiền và chính trị.
Phật giáo ở Trung Quốc được hoạt động bình thường từ thập niên 1980, sau cái chết của Mao Trạch Đông, kẻ đã nhấn Phật giáo ở Trung Quốc xuống tận bùn đen, đẩy các giá trị ngàn đời của Chùa và kính sách vào ô nhục ở cuộc cách mạng văn hóa kéo dài từ 1966 đến 1976. Khởi đầu thì đó chỉ là chính sách sửa sai, nhưng pha trộn âm mưu mô hình Phật giáo do Ban tôn giáo của Trung ương Đảng chỉ đạo, thường được người đời gọi mai mỉa là Phật giáo quốc doanh. Nhưng rồi giới chóp bu ở Bắc Kinh nhanh chóng nhận ra, Phật giáo quốc doanh lại là một nguồn thu khổng lồ, có thể nuôi sống các bộ máy chính quyền hay quan chức địa phương, và lại dễ dàng đối ngoại như một kiểu “tự do tôn giáo”.
Ngay lập tức Chùa chiền, kinh sách, tượng Phật lớn kỷ lục… được dựng nên bằng tiền của các doanh nghiệp đầu tư, thậm chí tiền bẩn của các quan chức tham nhũng… nhằm thu hút dân chúng. Trong thời đại của Mao, chùa các nhà sư bị đẩy đi làm ruộng, chăn nuôi… để gọi là có ích cho sự phát triển đất nước. Nhưng đến thời đại của Đặng, các nhà sư được ăn mặc đẹp, tổ chức lễ hội… tạo ra nguồn thu lớn, mà nhà nghiên cứu người Trung Hoa Zhe Ji viết trong tiểu luận “Phật giáo và Nhà nước: Mối quan hệ mới” (2008), tạm gọi tên là “Nền kinh tế nhà Chùa” (monastic economy).
Ở Việt Nam, sau năm 1975, tôn giáo bị coi là “thuốc phiện của nhân dân”. Chùa bị chiếm, cơ sở Phật giáo và kinh sách vở bị tịch thu, nhiều tăng ni và tín hữu Phật giáo của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất bị bắt, kết án, giam lỏng, tù và đi cải tạo đến chết. Để tạo ra Giáo Hội của Nhà nước, một Hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam đã được tổ chức tại Quán Sứ, Hà Nội, được triệu tập bởi Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam vào ngày 7 tháng 11 năm 1981, sau đó thành lập nên Giáo hội này, từ đó về sau được định nghĩa là giáo hội quốc doanh bởi tôn chỉ rất rõ “Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa xã hội”. Dĩ nhiên, mục đích cũng nhằm thủ tiêu hệ thống Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
Phật giáo Việt Nam bị dòm ngó như một loại con rơi, tạm tồn tại trong xã hội cộng sản. Nhưng đến năm 2003, Bộ chính trị Cộng sản VN nhận ra việc cho phép tín ngưỡng tồn tại có lợi cho mình hơn là tiêu diệt đi. Đặc biệt là sau thời gian 1995, khi Việt Nam được bỏ cấm vận và đối diện với Liên Hợp Quốc về nhiều vấn đề Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, bao gồm tự do tín ngưỡng.
Ngày 12 tháng 3, năm 2003, Ban chấp hành Trung ương đảng CSVN ra nghị quyết số 25-NQ/TW, do đảng trưởng đảng CSVN là Nông Đức Mạnh ký, đã xác định một đường lối mới, cho phép tôn giáo được tồn tại trong xã hội, nhưng trong Mục II, phần 4, nhấn mạnh rằng “Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.”
Kể từ đó, Phật giáo quốc doanh ở VN được đẩy mạnh hoạt động, không chỉ về mặt vật chất và còn cả về con người được nhà cầm quyền đầu tư đi học lý thuyết Phật giáo, khoác áo làm sư và kiểm soát nhiều tăng viện. Thậm chí luồng nhân lực đó, được đẩy ra hoạt động ở hải ngoại, nơi có các cộng đồng người Việt tự do đang quần cư.
“Giới Phật giáo (quốc doanh) tại Trung Quốc hiện tận hưởng nhiều tự do trong việc xây dựng các chùa chiền, tuyển mộ tăng sĩ, tổ chức các nghi lễ và truyền bá tín ngưỡng theo kiểu của họ” tác giả Raoul Birnbaum trong cuốn Buddhist China at the Century’s Turn (2017) cũng ghi nhận như vậy. Nhưng bên cạnh đó, khi thu được lợi nhuận từ “Nền kinh tế nhà Chùa”, nhà nước cộng sản cũng tự lũng đoạn các giá trị thuyết vô thần của mình khi để cho sự sùng bái tín ngưỡng tăng nhanh, hỗn loạn, thậm chí dẫn đến các cực của mê tín.
Điều gì phải đến, rồi đã Raoul Birnbaum đến. Các vụ bê bối sư thầy và chùa ở Trung Quốc liên tục xuất hiện trong thập niên 90, qua đến tận lúc này. Rất nhiều lời chỉ trích đã xuất hiện trên các trang mạng Trung Quốc về chuyện các sư xài tiền như nước, và bao quanh là các nữ tín hữu trẻ đẹp. Gần đây lại là các vụ bê bối về tình dục đã bùng nổ, liên quan đến các sư danh tiếng ở Bắc Kinh, Hà Nam… và đó lại là những nơi dẫn đầu về “nền kinh tế nhà Chùa”.
Câu chuyện chùa Ba Vàng chỉ là một trong những nơi đang lạm dụng mê tín, phản bội tinh thần Phật giáo chính tông, phụng sự cho thế quyền và mua bán tín ngưỡng. Từ Nam chí Bắc, những lời ta thán như vậy vẫn xuất hiện không ngớt trên các trang mạng xã hội, cùng hình ảnh tố cáo. Nhưng nếu chú ý, hình thức trừng phạt những người đã tạo ra các bê bối đó – ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc – thường là kiểm điểm hoặc khai trừ khỏi các chức vị. Đó cũng là một biểu hiện cho thấy tổ chức tôn giáo giờ đây cũng hành xử như một chi bộ đảng, điều đó hoàn toàn khác biệt với một tổ chức tôn giáo chân chính.
Tuấn Khanh
28/3/2019
Có thể thấy rằng vụ bê bối chùa Ba Vàng đang được dàn xếp rất nhanh, gói ghém lại mọi thứ, với mục đích không để công luận xoáy vào và tìm hiểu thêm. Trên website của chùa, hình ảnh liên quan với các quan chức nhà nước cấp cao đã được gỡ sạch trong một đêm. Các quyết định trừng phạt cá nhân nhanh chóng được đưa ra, cùng với việc trụ trì Thích Trúc Thái Minh trở nên im lặng, cho thấy từ bên trên chính quyền đã có một quyết định chung cuộc.
Tất cả những điều đó, như đang muốn chặn đứng câu hỏi dồn dập từ quần chúng “ai bảo kê cho chùa này?”, “ai đầu tư kiếm lợi từ chùa?” và số tiền khổng lồ hàng năm không có thuế, chỉ nằm trong két sắt của chùa, hay còn được chuyển vào tài khoản của quan chức nào khác?
Làm tiền, lũng đoạn tinh thần tín ngưỡng của quần chúng và âm mưu làm băng hoại hình ảnh Phật giáo, là những gì đang diễn ra ở Việt Nam. Chùa Ba Vàng chỉ là một điểm trong tấm bản đồ dày đặc chạy dài suốt Việt Nam. Nên nếu để thông tin tự do lan tràn và đào sâu, chuỗi mạo danh nhà Phật này sẽ bị bóc trần toàn bộ.
Sự kiện chùa Ba Vàng, Quảng Ninh gợi nhớ về những sự kiện tương tự ở người đàn anh vô thần Trung Quốc. Năm 2015, sư trụ trì Shi Yongxin, người được biết đến như là một “CEO Thượng tọa” cho việc kinh tài của Thiếu Lâm Tự, bị tố giác là lạm dụng tiền bạc trong nguồn thu khổng lồ của chùa này, cũng bao gồm từ việc cúng sao, giải hạn, cầu an, bán vé vào cửa… Theo cáo giác, chỉ trong năm 2015, chỉ riêng việc bán vé vào tham quan chùa thôi, với 100 nhân dân tệ/người, Thiếu Lâm Tự đã thu về khoảng 7,3 triệu USD.
Nhưng sự việc không ngừng ở đó, khi mọi chuyện đổ bể, người ta biết được Thiếu Lâm Tự chỉ giữ lại được có 1 phần 3 số tiền đó. Phần còn lại thì được chia cho quỹ đen của chính quyền địa phương. Trong bài phân tích có tựa đề The decline and fall of Chinese Buddhism – how modern politics and fast money corrupted an ancient religion (tạm dịch: Sự suy tàn và sụp đổ của Phật giáo Trung Quốc – làm thế nào mà chuyện chính trị và làm tiền nhanh đã hủy hoại một tôn giáo có từ ngàn xưa) của tác giả Mimi Lau, đăng trên tờ SMCP, tháng 9/2018, có nói rõ rằng Thiếu Lâm Tự cũng như hàng ngàn ngôi chùa mới được xây dựng ở Trung Quốc, luôn có một hội đồng điều hành, mà trong đó các đảng viên CS, quan chức nhà nước cùng tham gia.
Một nghiên cứu của giáo sư Zhe Ji, từ Viện Ngôn ngữ và Văn minh phương Đông ( Institut National des Langues et Civilisations Orientales) tại Paris, cho thấy ở nhiều chùa, thủ quỹ là người được chính quyền địa phương chỉ định. Chi tiêu riêng cho chùa phải trình lên, trụ trì cũng không được tự quyết”.
Dĩ nhiên, giờ đây, buôn bán thánh thần, và diễn đạt tín ngưỡng dưới ngọn cờ tam vô của chủ nghĩa cộng sản, là những nơi có thể làm ra tiền nhanh và nhiều đến mức chóng mặt.
Cách đây 10 năm, chính quyền Bắc Kinh tìm ra đủ các phương thức mà quan chức tham nhũng giấu hay chuyển tiền đi. Nhưng từ khi việc đầu tư vào xây chùa, đền thờ, dựng lễ hội ra đời… là cách thức rửa tiền nhanh và hợp pháp nhất mà quan chức đích thân ra tay, hoặc núp bóng dưới các công ty đầu tư du lịch. Đó là lý do vì sao, chính quyền Bắc Kinh với chính sách nhất quán thù ghét tôn giáo, nhưng lại cho phép xây dựng hàng ngàn chùa, đền, tượng Phật lớn kỷ lục… trong suốt 3 thập niên.
Nói về tốc độ xây dựng chùa, đắp tượng lớn, theo thống kê của Giáo hội Phật giáo quốc doanh Việt Nam, từ năm 1997, đến năm 2007, cơ sở thờ tự Phật giáo chỉ tăng lên vài trăm (từ 14.048 ngôi, lên 14.777 ngôi). Nhưng vào thời gian gần đây, từ 2007 đến 2017, đã có đến 18.466 ngôi. Con số tăng trưởng này, giải thích phần nào tình trạng đột phát các chùa tranh nhau gây quỹ, thu tiền, bịa đặt các nghi thức đắm đuối mê tín… Ghê sợ hơn, qua việc tập hợp đám đông, những nơi như vậy còn dẫn dụ đám đông quên đi hiện thực điêu tàn của đất nước, chia rẽ tôn giáo và thậm chí còn hủy hoại cả lòng yêu nước trước ngoại bang.
Một điều dễ thấy của đạo pháp – xã hội chủ nghĩa, là chính quyền không chủ trương tạo ra những bậc cao tăng, những bậc trí giả Phật giáo để giác ngộ chúng sinh, mà chỉ tạo ra đám đông mặc áo sư cùng chuông đồng và nhang khói. Bởi bản chất của chính quyền tam vô luôn lo sợ các bậc trí giả đó sẽ hướng chúng sanh đi vào chính đạo. Theo tài liệu của nhà nghiên cứu Mimi Lau, Trung Quốc vĩ đại chỉ có 240.000 đại đức, nhưng hơn phân nửa là từ Tây Tạng. Quốc gia rộng lớn này thu tiền vô kể từ Phật giáo, nhưng chỉ có 41 trường đào tạo Phật học, nhưng người đến học thì bị kiểm soát chặt bởi Ban tôn giáo Chính phủ (State Administration of Religious Affairs). Ngay tại Việt Nam, sau 44 năm thống nhất địa lý, nhà nước cộng sản Việt Nam đã không thể có được những bậc trí giả Phật giáo như Tuệ Sỹ, Thích Nhất Hạnh, Lê Mạnh Thát…
Phía sau sự phát triển Phật giáo như một cách kiếm tiền nhanh và lũng đoạn quần chúng là gì? Các nghiên cứu từ Trung Quốc cho thấy nhiều trụ trì vì ganh tị với cách kiếm tiền của nhau, lại dựa thế có có các quan chức hay giới tài phiệt đỏ chống lưng, nên vẫn tìm cách hãm hại, đạp đổ nhau.
Cũng là chùa dựa vào mê tín, vòi tiền tín hữu… nhưng Thích Thanh Quyết lại mạnh miệng chỉ trích Thích Trúc Thái Minh. Phía sau của Thích Thanh Quyết là một vị thế chính trị vững chắc hơn, đang hậu thuẫn chăng? Thật khó đoán. Nhưng điều có thể nhìn thấy ngay lúc này, là những kẻ giả sư, giả đạo đang đẩy dân tộc và đất nước vào con đường như điên như dại. Sân khấu tín ngưỡng ấy, cũng đang hạ màn như qua một cuộc giải vong.
Tuấn Khanh
——-
Những điểm sa lầy tương đồng, giữa Phật giáo quốc doanh và Việt Nam
Nhạc sĩ Tuấn Khanh
27/03/2019
LkL: Đọc thêm link dưới comment Lam mới search để thấy Phật giáo TQ cũng bị lũng đoạn tương tự ra sao (The decline and fall of Chinese Buddhism: how modern politics and fast money corrupted an ancient religion)
(Nhà Nam Media) Tương tự như Trung Quốc, mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và Phật giáo tại Việt Nam hết sức phức tạp. Đó là mối quan hệ lợi dụng qua lại lẫn nhau, mà các nhà phân tích xã hội gọi đó là bài tính có kết quả tổng bằng không cho cả hai bên. Bởi những người trung thành với lý thuyết Cộng sản dần dà tự tìm đến Phật giáo để tự chữa lành phần tinh thần trống rỗng của mình, một mô hình tín ngưỡng duy nhất được cho phép tồn tại đại chúng trong nền chính trị vô thần. Và ngược lại, những người mộ đạo thuần khiết thì dần dần tự rời bỏ không gian Phật giáo quốc doanh, vì nhận ra rằng đó chỉ là một trò mua bán tinh thần được dựng nên bằng tiền và chính trị.
Phật giáo ở Trung Quốc được hoạt động bình thường từ thập niên 1980, sau cái chết của Mao Trạch Đông, kẻ đã nhấn Phật giáo ở Trung Quốc xuống tận bùn đen, đẩy các giá trị ngàn đời của Chùa và kính sách vào ô nhục ở cuộc cách mạng văn hóa kéo dài từ 1966 đến 1976. Khởi đầu thì đó chỉ là chính sách sửa sai, nhưng pha trộn âm mưu mô hình Phật giáo do Ban tôn giáo của Trung ương Đảng chỉ đạo, thường được người đời gọi mai mỉa là Phật giáo quốc doanh. Nhưng rồi giới chóp bu ở Bắc Kinh nhanh chóng nhận ra, Phật giáo quốc doanh lại là một nguồn thu khổng lồ, có thể nuôi sống các bộ máy chính quyền hay quan chức địa phương, và lại dễ dàng đối ngoại như một kiểu “tự do tôn giáo”.
Ngay lập tức Chùa chiền, kinh sách, tượng Phật lớn kỷ lục… được dựng nên bằng tiền của các doanh nghiệp đầu tư, thậm chí tiền bẩn của các quan chức tham nhũng… nhằm thu hút dân chúng. Trong thời đại của Mao, chùa các nhà sư bị đẩy đi làm ruộng, chăn nuôi… để gọi là có ích cho sự phát triển đất nước. Nhưng đến thời đại của Đặng, các nhà sư được ăn mặc đẹp, tổ chức lễ hội… tạo ra nguồn thu lớn, mà nhà nghiên cứu người Trung Hoa Zhe Ji viết trong tiểu luận “Phật giáo và Nhà nước: Mối quan hệ mới” (2008), tạm gọi tên là “Nền kinh tế nhà Chùa” (monastic economy).
Ở Việt Nam, sau năm 1975, tôn giáo bị coi là “thuốc phiện của nhân dân”. Chùa bị chiếm, cơ sở Phật giáo và kinh sách vở bị tịch thu, nhiều tăng ni và tín hữu Phật giáo của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất bị bắt, kết án, giam lỏng, tù và đi cải tạo đến chết. Để tạo ra Giáo Hội của Nhà nước, một Hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam đã được tổ chức tại Quán Sứ, Hà Nội, được triệu tập bởi Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam vào ngày 7 tháng 11 năm 1981, sau đó thành lập nên Giáo hội này, từ đó về sau được định nghĩa là giáo hội quốc doanh bởi tôn chỉ rất rõ “Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa xã hội”. Dĩ nhiên, mục đích cũng nhằm thủ tiêu hệ thống Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
Phật giáo Việt Nam bị dòm ngó như một loại con rơi, tạm tồn tại trong xã hội cộng sản. Nhưng đến năm 2003, Bộ chính trị Cộng sản VN nhận ra việc cho phép tín ngưỡng tồn tại có lợi cho mình hơn là tiêu diệt đi. Đặc biệt là sau thời gian 1995, khi Việt Nam được bỏ cấm vận và đối diện với Liên Hợp Quốc về nhiều vấn đề Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, bao gồm tự do tín ngưỡng.
Ngày 12 tháng 3, năm 2003, Ban chấp hành Trung ương đảng CSVN ra nghị quyết số 25-NQ/TW, do đảng trưởng đảng CSVN là Nông Đức Mạnh ký, đã xác định một đường lối mới, cho phép tôn giáo được tồn tại trong xã hội, nhưng trong Mục II, phần 4, nhấn mạnh rằng “Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.”
Kể từ đó, Phật giáo quốc doanh ở VN được đẩy mạnh hoạt động, không chỉ về mặt vật chất và còn cả về con người được nhà cầm quyền đầu tư đi học lý thuyết Phật giáo, khoác áo làm sư và kiểm soát nhiều tăng viện. Thậm chí luồng nhân lực đó, được đẩy ra hoạt động ở hải ngoại, nơi có các cộng đồng người Việt tự do đang quần cư.
“Giới Phật giáo (quốc doanh) tại Trung Quốc hiện tận hưởng nhiều tự do trong việc xây dựng các chùa chiền, tuyển mộ tăng sĩ, tổ chức các nghi lễ và truyền bá tín ngưỡng theo kiểu của họ” tác giả Raoul Birnbaum trong cuốn Buddhist China at the Century’s Turn (2017) cũng ghi nhận như vậy. Nhưng bên cạnh đó, khi thu được lợi nhuận từ “Nền kinh tế nhà Chùa”, nhà nước cộng sản cũng tự lũng đoạn các giá trị thuyết vô thần của mình khi để cho sự sùng bái tín ngưỡng tăng nhanh, hỗn loạn, thậm chí dẫn đến các cực của mê tín.
Điều gì phải đến, rồi đã Raoul Birnbaum đến. Các vụ bê bối sư thầy và chùa ở Trung Quốc liên tục xuất hiện trong thập niên 90, qua đến tận lúc này. Rất nhiều lời chỉ trích đã xuất hiện trên các trang mạng Trung Quốc về chuyện các sư xài tiền như nước, và bao quanh là các nữ tín hữu trẻ đẹp. Gần đây lại là các vụ bê bối về tình dục đã bùng nổ, liên quan đến các sư danh tiếng ở Bắc Kinh, Hà Nam… và đó lại là những nơi dẫn đầu về “nền kinh tế nhà Chùa”.
Câu chuyện chùa Ba Vàng chỉ là một trong những nơi đang lạm dụng mê tín, phản bội tinh thần Phật giáo chính tông, phụng sự cho thế quyền và mua bán tín ngưỡng. Từ Nam chí Bắc, những lời ta thán như vậy vẫn xuất hiện không ngớt trên các trang mạng xã hội, cùng hình ảnh tố cáo. Nhưng nếu chú ý, hình thức trừng phạt những người đã tạo ra các bê bối đó – ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc – thường là kiểm điểm hoặc khai trừ khỏi các chức vị. Đó cũng là một biểu hiện cho thấy tổ chức tôn giáo giờ đây cũng hành xử như một chi bộ đảng, điều đó hoàn toàn khác biệt với một tổ chức tôn giáo chân chính.
Tuấn Khanh
No comments:
Post a Comment