Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 070222
Diện Kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma
* Nguyễn-Xuân Nghĩa, chủ biên báo xuân Việt Báo và Nhã Ca, chủ
nhiệm Việt Báo diện kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma *
Lời giới thiệu: Mùa Thu 2006, trong dịp thăm viếng miền Nam California, đức Đạt Lai Lạt
Ma đã có nhiều buổi thuyết pháp với Phật tử tại Pasadena, và nói chuyện với
công chúng tại Universal Studios và Long Beach. Dù có nghị trình làm việc dày
đặc, Ngài vẫn dành thời giờ tiếp kiến đại diện Việt Báo là Nhã Ca và
Nguyễn-Xuân Nghĩa vào ngày 14 tháng Chín tại Pasadena. Thời lượng dự trù mười
phút đã kéo dài hơn gấp ba vì Ngài quan tâm đến Việt Nam và cộng đồng người
Việt nên dành thêm thời giờ nói thẳng với người Việt. Sau đây là những điều
được ghi nhận trong cuộc diện kiến đặc biệt này...
Do
sự ân cần giới thiệu của Hoà thượng Geshe Tsultim Gyeltsen, vị cao tăng trụ trì
và là viện trưởng Tu viện Phật giáo Tây Tạng Thubten Dhargye Ling tại Long
Beach, đức Đạt Lai Lạt Ma đồng ý gặp Chủ nhiệm Nhã Ca và Chủ biên Giai phẩm
Xuân Việt Báo Nguyễn Xuân Nghĩa. Ngài còn đặc biệt cho phép một người đi cùng
để chụp hình. Đấy là nhiếp ảnh gia Lê Phúc nổi tiếng trong cộng đồng người Việt
tại Quận Cam. Nơi diện kiến là Khách sạn Westin Pasadena vào sáng sớm ngày 14
tháng Chín, trước khi Ngài xuống đại sảnh của Khách sạn để thuyết pháp với Phật
tử.
Bước Vào Hành Lang
Đức
Đạt Lai Lạt Ma di chuyển không ngừng trong nhịp độ làm việc khít khao từng
phút. Nơi nào Ngài cũng được dân chúng đón mừng như một đại minh tinh, nhưng
lại được bảo vệ an ninh. Điều ấy, dân Tây Tạng biết và thông cảm khi họ bị hạn
chế tiếp cận - là tiếp xúc ở gần. Đức Đạt Lai Lạt Ma không chỉ là vị lãnh đạo
Phật giáo Tây Tạng mà còn là Quốc trưởng Lưu vong của một xứ Tây Tạng đang bị
ngoại bang thống trị.
Công
chúng thường nghĩ, và có thể không sai, rằng nhân vật đặc biệt này có một thần
lực siêu hình. Người Tây Tạng tin rằng Ngài là Hoá thân (hay Ứng hóa thân) của
đức Bồ Tát Quán Thế Âm và là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Phật giáo Tây Tạng.
Trong buổi nói chuyện với 11 ngàn người tại Gibson Amphitheater hôm 13, đức Đạt
Lai Lạt Ma dí dỏm cảnh tỉnh công chúng về điều gọi là phép thần thông của mình.
"Cũng chỉ là một nhà sư thôi!"
Mặc
dù như vậy, người ta vẫn cảm thấy trong lòng sự tôn kính một vị Thánh tăng, y
như người Công giáo có thể cảm thấy khi được diện kiến đức Giáo hoàng vậy.
Điều
mà chúng ta chỉ biết khi thấy tận mắt là việc bảo vệ an ninh cho đức Đạt Lai
Lạt Ma. Từ bên ngoài, người ta không biết rằng đó là hệ thống Bảo vệ Yếu nhân
(Mật vụ - Secret Service) của Hoa Kỳ khi phải bảo vệ một nhân vật quan
trọng, vòng trong mới là nhiều người cận vệ của Tây Tạng, nhưng chúng tôi cảm
thấy rất rõ là đang bước vào một môi trường khác. Nguyên một tầng lầu của khách
sạn là nơi hạn chế lưu thông, không có người dẫn thì không lên tới! Đây là một
vị Quốc trưởng cần được bảo vệ hơn rất nhiều quốc trưởng khác trên thế
giới.
Tại
khách sạn Westin, từ ngoài hành lang, ba người khách Việt Nam đã được các viên
chức Tây Tạng chào đón lịch sự nhưng nghiêm trọng, và được mời dùng nước trong
một phòng khách bên cạnh. Đoàn tùy tùng của đức Đạt Lai Lạt Ma làm việc liên
tục khi kiểm nhận và đón vào từng người khách. Tại phòng ngoài, chúng tôi gặp
người khách vào trước là một nhân viên nội các đã hồi hưu của Chính phủ Lưu
vong Tây Tạng. Ông từng là Bộ trưởng An ninh thì phải, đến để đảnh lễ đức Đạt
Lai Lạt Ma và chỉ được dành cho vài phút. Nghiêm mật và long trọng lắm.
Sau
đó tới "phái đoàn" Việt Báo!
Đấy
là lúc chúng tôi thấy được "biệt nhãn" của Tây Tạng.
Khác
với nhiều vị khách, chúng tôi không bị lục soát cơ thể và máy ảnh hay đồ nghề
đem theo! Chuyện rất nhỏ mà lại nói lên cái tâm rộng mở của những người tháp
tùng đức Đạt Lai Lạt Ma.
Qua
hành lang đầy người bảo vệ nghiêm ngặt, bước vào phòng khách của đức Đạt Lai
Lạt Ma thì người ta lại thấy hoàn toàn khác. Nơi một vị Thánh tăng ngồi thì
phải tôn nghiêm như một ngôi chùa, nơi một vị Quốc trưởng ngự thì phải là một
triều đình nghiêm minh chứ!
Không!
Phòng khách trang trí đơn giản có một dò lan đằng sau con người mà thế giới
ngưỡng mộ và kẻ thù e ngại.
Tại
một phòng khách của Westin Pasadena, nhân vật siêu hạng này đứng dậy đón chào
"phái đoàn Việt Báo", chắp tay đáp lễ từng người và dắt tay ngồi
xuống tràng kỷ. Ở đây, người duy nhất tháo giày là đức Đạt Lai Lạt Ma! Ngài mỉm
cười ra dấu và xếp chân vòng tròn ngồi trên ghế bành theo phép kiết già của một
vị cao tăng. Không khí đổi khác kể từ giây phút đó. Ngài muốn có một buổi nói
chuyện thoải mái!
Từ
ngoài vào là nhân viên của phái đoàn Tây Tạng và các cận vệ, da trắng lẫn Á
châu. Họ kín đáo bước ra phòng ngoài. Bên trong, chỉ còn hai người Tây Tạng bên
vị Quốc trưởng của họ.
Một
người là thông dịch viên của đức Đạt Lai Lạt Ma.
Chúng
ta biết vậy vì ông đã ngồi cạnh Ngài để làm việc ấy trong buổi nói chuyện với
công chúng hôm trước tại Universal City. Ông ngồi ngay ngắn bên phải đức Đạt
Lai Lạt Ma. Và lắng nghe không sót một chữ.
Anh
ngữ là ngoại ngữ chính và rất thông thạo của đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng Ngài
luôn luôn có một người thông dịch. Nét khiêm cung của Ngài toát ra từ chi tiết
ấy. Đây không là vị "Thánh sống" cứ nói ra là chân lý siêu tuyệt.
Nhiều lần, Ngài quay sang hỏi người thông dịch về một từ có thể là khó diễn tả,
hoặc chính người nghe thấy khó hiểu, bằng Anh ngữ. Ngài không để sơ sẩy từ
chuyện nhỏ nhất trong sự diễn đạt tư tưởng.
Người
thứ hai là ai, khó biết.
Ông
ngồi im ắng ở một góc đối diện với đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng nhìn thẳng vào ba
người khách.
Về
sau mới biết đấy là Bí thư riêng của Ngài, con trai một người anh của đức Đạt
Lai Lạt Ma. Ông Tenzin Takhla này là người ít nói nhưng khi hữu sự thì đứng lên
can thiệp rất gọn và nhẹ. Chuyện ấy, Nhã Ca thấy liền vào cuối buổi hội kiến
khi cầm máy ảnh muốn chụp tấm hình đứng bên đức Đạt Lai Lạt Ma như chính Ngài
mời. Ông Takhla đã đỡ ngay máy ảnh và thành thạo bấm liền mấy tấm như máy của
chính mình! Không thể để mất thời giờ được.
Đấy
là những người tận tụy với công việc và có trình độ nghề nghiệp rất cao! Nghiêm
túc, và kín đáo, tự tin và hữu hiệu. Chúng ta đang chứng kiến một góc rất nhỏ
của Triều đình Tây Tạng khi di chuyển ra ngoài.
Người
duy nhất tự nhiên thoải mái là đức Đạt Lai Lạt Ma!
Ngài
mỉm cười như một nông dân nghe khách cám ơn về buổi diện kiến đặc biệt này. Từ
con người ấy chỉ thấy toát lên sự yên bình của lòng tốt, của thiện tâm. Không
có phép thần thông nào cả, chỉ có sự ân cần tử tế trong ánh mắt.
Kỷ Niệm Đầu Xuân
Đức
Đạt Lai Lạt Ma hỏi thăm về báo xuân Việt Báo
Theo
đúng chức nghiệp của người làm báo, chúng tôi phải gọi đây là một cuộc phỏng
vấn vì mình đặt câu hỏi để Ngài trả lời. Nhưng thật ra, đây là một cuộc mạn đàm
vì đức Đạt Lai Lạt Ma để câu chuyện tự nhiên xuôi chảy. Khi các nhân viên của
Ngài bước vào từ ngoài vì sắp hết giờ, Ngài khoát tay qua một bên. Chuyện chưa
dứt vì Ngài đang muốn nói về Việt Nam.
Bên
ngoài hành lang là những xôn xao thúc giục vì Ngài sẽ phải xuống thuyết pháp.
Bên trong, đức Đạt Lai Lạt Ma cho phép kéo dài cuộc diện kiến để nói cho hết về
Việt Nam. Theo lời kể của các cận thần, đây là chuyện hiếm có!
Mở
đầu là lời cảm tạ của Việt Báo và một phút nói về Giai phẩm Xuân Đinh Hợi. Năm
nay, chúng tôi muốn nhắc về biến cố năm Hợi 1959, khi Tây Tạng bị thôn tính, và
về một nhân vật tuổi Hợi là đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài cười và đòi xem một vài số
Xuân đã phát hành trước đó. Nếu vậy thì phải có lời chúc Xuân gửi đến người
Việt Nam. Nguyên đán của Việt Nam cũng là Nguyên đán của Tây Tạng mà.
Câu
hỏi đầu tiên, theo kiểu tò mò của nhà báo là: "Ngài có những kỷ niệm gì
đáng nhớ về Tết Nguyên đán. Ngài nhớ đến ngày Xuân 1939 khi đăng quang là đức
Đạt Lai Lạt Ma ở tuổi lên bốn, hay nhớ đến mùa Xuân buốt giá năm Kỷ Hợi 1959,
khi kinh đô Lhasa bị quân đội Trung Quốc tấn công"
Những
người thích luận đàm về công án Thiền tông có thể vu vơ nghĩ đến bản lai diện
mục của chúng sinh trong từng kiếp nghiệp luân hồi. Ở đây, câu hỏi là chuyện
thời sự với một vị Hoạt Phật!
Kỷ
niệm khó quên nhất của tôi là vào mùa Xuân 1959.
Đức
Đạt Lai Lạt Ma trả lời trong ánh mắt u uẩn.
Năm
ấy, cuộc đời tôi đã có một thay đổi lớn lao khi phải trốn khỏi quê hương của
mình. Và năm ấy, tôi lần đầu tiên trực kiến một vấn đề của nhân thế, là lẽ tử
sinh. Đây không phải là một khái niệm trừu tượng nữa mà là một thực tế vì tôi
biết là mình có thể mất mạng và như vậy sẽ để lại nhiều vấn đề cho dân tộc Tây
Tạng.
Giờ
đây, Ngài nghĩ sao về kỷ niệm ấy?
Nhìn
lại biến cố này sau gần năm mươi năm, tôi có một cảm nghĩ buồn vui lẫn lộn.
Trước hết là một sự buồn bã vì mình trở thành người tỵ nạn, phải rời xa quê
hương và dân tộc. Từ đấy phải sống lưu vong và ngóng trông tin tức từ bên
trong.
Trầm
ngâm giây lát, đức Đạt Lai Lạt Ma tươi dần nét mặt và cúi nhìn xuống.
Thế
rồi cũng những tin tức ấy khiến tôi thấy lòng mình được an ủi. Mặc dù phải nằm
dưới sự cai trị của chính quyền Trung Quốc, dân Tây Tạng vẫn không mất niềm tin
về chính mình, về tôn giáo và văn hoá Tây Tạng.
Tinh
thần ấy thể hiện ngay trong giới trẻ, những người sinh ra và lớn lên dưới một
chế độ cai trị đang muốn xóa bỏ ký ức của họ. Người Tây Tạng vẫn nuôi hy vọng
được thấy xứ sở sẽ có tự do. Ở bên ngoài lãnh thổ, dân Tây Tạng lưu vong vẫn cố
gắng duy trì nếp văn hoá và di sản Tây Tạng. Đồng thời, cũng nhờ cộng đồng Tây
Tạng lưu vong mà thế giới đã biết nhiều hơn đến Phật giáo.
Có
thể nói rằng trào lưu quan tâm đến các vấn đề tâm linh, tôn giáo, cũng là một
hậu quả của biến cố đáng buồn vào mùa Xuân 1959. Với bản thân tôi, đây là một
sự thử nghiệm tâm linh rất đáng chú ý, "remarquable".
Hạt Mầm Phật Giáo Và Thiện
Duyên
Xin
Ngài nói rõ hơn về sự bành trướng ảnh hưởng của Phật giáo, thí dụ như tại Hoa
Kỳ này.
Sau
biến cố đau buồn năm 1959, dân Tây Tạng lưu vong đã có mặt tại rất nhiều nơi
trên thế giới và đem theo hạt mầm Phật giáo gieo rắc trên thế giới.
Một
trong những hạt mầm tốt đó là Hoà thượng Geshe La mà quý vị đã gặp tại Long
Beach [Hoà thượng Geshe Tsultim Gyeltsen, sư phụ của hai nhà báo]. Mấy chục năm
trước, chúng tôi có được mối thiện duyên tại Hoa Kỳ cũng do Phật giáo Việt Nam
đã sát vai với thầy Geshe La trong những bước đầu đặt chân lên nước Mỹ. Từ đó,
Phật giáo Tây Tạng có mối duyên tri ngộ thâm sâu với Phật giáo Việt Nam. Quý vị
có thể cảm thấy điều ấy khi gặp Hoà thượng Geshe La, một vị cao tăng tôi rất
quý trọng.
Nói
về sự quảng bá của Phật giáo sau biến cố 1959 tại Tây Tạng, đức Đạt Lai Lạt Ma
nhấn mạnh đến một hiện tượng ít người chú ý. Đó là Phật giáo nói chung đang
thực sự hiện đại hoá dưới con mắt của thể giới.
Ngài
diễn giải tiếp. Nhờ khoa học, như qua thiên văn học, người Phật tử biết được là
nhiều tín điều của mình phải được thay đổi và điều ấy thực sự có giúp ích cho
Phật pháp. Nhưng đồng thời, một số bộ môn khoa học liên quan tới sinh học hay
thần kinh tâm lý học lại tìm ra qua kinh nghiệm tu tập hay thiền định của Phật
tử nhiều lý giải có ích cho việc nghiên cứu. Người Phật tử nên tìm hiểu và nói
chuyện với giới khoa học về những suy nghiệm của mình để bắc nhịp cầu giữa tôn
giáo và khoa học. Đấy cũng là một đóng góp không nhỏ của Phật giáo cho nhân
loại trong một kỷ nguyên mà người ta gọi là hiện đại, tân tiến, hậu công
nghiệp.
Hôm
đó, khi nói chuyện như vậy, chúng ta chưa biết là vài ngày sau, 19 tháng Chín,
Đại học State University of New York vinh danh Ngài là Tiến sĩ Danh dự về Nhân
văn. Và đúng một tháng sau, ngày 14 tháng 10, Đại học Third University của Roma
tôn Ngài là Tiến sĩ Danh dự về Sinh học.
Phật
giáo có liên hệ gì và đóng góp gì cho Nhân văn và Sinh học? Thế giới ngày nay
học hỏi được nhiều hơn từ đạo Phật và một vị Tăng thống Phật giáo đã nhiều lần
thảo luận với các nhà bác học của thế giới về một mối quan tâm chung: hiểu rõ
vũ trụ để giúp cho chúng sinh và nhân loại.
Chúng
ta hiểu dần ra nhiều khía cạnh của điều mà đức Đạt Lai Lạt Ma gọi là hiện đại
hoá Phật giáo.
Phật Sống Và Khủng Bố
Thế
giới ngày nay đang đầy dẫy oán thù xung đột và cả khủng bố vì lý do tôn giáo.
Điều ấy là thời sự hàng ngày. Nhưng, trong một nơi yên ắng ở California, chúng
ta muốn biết là một người từ Đỉnh tuyết Tây Tạng đi xuống như đức Đạt Lai Lạt
Ma thì nghĩ sao về hiện tượng đó?
Thưa
Ngài, đây không phải là một câu hỏi loại "giật gân" của nhà báo,
nhưng nếu giả dụ là bị quân khủng bố bắt giữ làm con tin, Ngài sẽ xử trí ra
sao?
Mặc
dù câu hỏi đã được gói ghém cho nhẹ nhàng, đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn bật cười thật
lớn, như con trẻ trước một trò chơi ngộ nghĩnh. Trong phòng khách, nhiều người
cũng giao động đổi thế ngồi.
Sau
đấy Ngài mới suy ngẫm giây lâu và câu trả lời là một điều đáng chú ý.
Tinh
thần Tây Tạng không chỉ là một ý chí chính trị, là lòng khát khao tự do, mà
cũng là một sức mạnh tâm linh nhắm vào sự giải thoát bằng lòng từ bi. Lòng từ
bi là chân tánh của chúng ta. Trong nhiều hoàn cảnh, chân tánh ấy có thể bị đe
dọa.
Ngài
nói tiếp, như người kể truyện.
Tôi
còn nhớ kinh nghiệm của một vị sư Tây Tạng đã bị Cộng sản Trung Hoa giam cầm và
hành hạ suốt 18 năm liền. Phản ứng ban đầu của ngài là sự căm giận vì cách đối
xử tàn ác của những người đang giam giữ mình. Thế rồi có một hôm, vị sư ấy giác
ngộ ra một điều. Người ta giam giữ hành hạ mình để làm gì? Để mình từ bỏ căn tính,
để mình hết còn là mình nữa.
Từ
kinh nghiệm ấy, chúng ta có thể học được một điều, đức Đạt Lai Lạt Ma kết
luận:
Khi
để hận thù nổi lên, mình đánh mất căn tính là lòng từ bi. Nghĩa là
mình đã thua. Sự giác ngộ ấy giúp vị sư kia vượt qua được chặng đường khổ ải mà
vẫn giữ được từ tâm của mình với chính những người cai ngục. Tôi nghĩ rằng đấy
là một cách ứng xử đúng khi mình gặp một hoàn cảnh vô cùng bất thường là bị
cưỡng ép phải thay đổi cách suy nghĩ và hành động của mình. Lòng từ bi đòi hỏi
một sự can đảm trước bạo lực.
Chúng tôi nghĩ rằng đây là một chỉ dạy đáng nhớ của đức
Đạt Lai Lạt Ma.
Nhân đó, xin được hỏi Ngài thêm một câu có vẻ thời sự.
Đức Đạt Lai Lạt Ma nghĩ sao về những lý giải tôn giáo biện minh cho tội ác, cho
hành vi khủng bố sát hại dân lành?
Câu trả lời lại rất ngắn gọn: Những người đồng ý với lối
lý giải ấy thực ra không theo đuổi một lý tưởng từ bi bác ái của tôn giáo. Họ
chung thủy với một hệ phái tôn giáo như người khác chung thủy với một đảng
chính trị, hay những lý luận cực đoan của một đảng chính trị!
Tâm Linh Và Thịnh Vượng
Mở rộng ra một vấn đề chung của nhân loại, đức Đạt Lai
Lạt Ma có nghĩ rằng thế giới ngày nay đang gặp một mối nguy là con người ngày
càng theo đuổi sự thịnh vượng vật chất mà xa lánh dần đức tin tôn giáo
không ? Nếu điều ấy đúng thì chúng ta cần làm gì?
Khi nêu câu hỏi, chúng tôi trù tính là mình đi gần hết
thời lượng đã được thỏa thuận trước, nên đấy là câu hỏi cuối. Kết quả lại khác,
cũng bất ngờ như câu trả lời.
Đức Đạt Lai Lạt Ma có thể bị dị ứng mô bì, Ngài thường
hay gãi da như bị ngứa. Nghe câu hỏi cuối, Ngài cười mỉm như một vị sư trước
nỗi băn khoăn của nhân thế, cái gì cũng muốn mà cái gì cũng sợ.
- Tôi thực ra không bi quan lắm về trào lưu phát triển sự
thịnh vượng của thế giới. Phải có phát triển để nâng cao mức sống của đại đa số
dân chúng địa cầu. Tự thân, việc ấy không là điều gì xấu xa vì cũng chính là từ
những tiến bộ ấy về vật chất mà người ta sẽ quan tâm hơn đến khía cạnh tâm linh
của đời sống. Tôi không thấy có mâu thuẫn giữa việc hiện đại hoá và phát huy
đức tin tôn giáo. Vấn đề là những người quan tâm đến đức tin phải hiểu ra bài
toán của con người qua quá trình hiện đại hóa này.
Đến đây thì từ bên ngoài, nhiều người đã bước vào ra dấu
cho đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài còn một khóa giảng bên dưới và cần chuẩn bị đi
xuống. Không ai ngờ là Ngài lại gật đầu và ra hiệu tiếp tục cuộc phỏng vấn.
Ngoài hành lang có tiếng người thầm thì xôn xao. Nhân viên của Ngài phải lo cho
chương trình kế tiếp, nhưng Ngài vẫn thản nhiên.
Xin cảm tạ Ngài, sau đây là một câu hỏi cũng có tính chất
thời sự. Thế giới mở rộng, hay toàn cầu hoá, như ngày nay có gặp vấn đề hay
không, khi nhiều quốc gia muốn đòi độc lập mà lại đánh mất căn cước hay bản sắc
của mình? Độc lập về chính trị có ý nghĩa gì khi ta không biết mình là ai và
muốn gì trong thế giới ấy?
Trong thế giới hôm nay, đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời, các
quốc gia đều liên lập với nhau, đều cần tới nhau. Độc lập trong ý nghĩa tự cô
lập và khép kín với thế giới bên ngoài chỉ là tự gây họa cho mình, là tự sát.
Về bản sắc hay căn cước «identity»
của một dân tộc thì nó không chỉ kết tinh vào một thế hệ và sẽ mất khi ta chết
đi. Nó phải tồn tại trong sự đổi thay. Chúng ta phải bảo vệ bản sắc đó qua giáo
dục từ thế hệ này qua thế hệ khác và phải hiện đại hóa chứ không thể quay lưng
với những đổi thay của thế giới.
Nhắn Gửi Người Việt Nam
Được nới rộng thời giờ, chúng tôi trở lại mối thiện duyên
của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo Tây Tạng và nêu một câu hỏi: Nếu có vài
lời nhắn gửi đến những người có đức tin tôn giáo, thí dụ như với Phật tử Việt
Nam ở trong và ngoài nước, thì đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ nói những gì?
Chúng tôi ngờ rằng khi Ngài yêu cầu kéo dài cuộc nói
chuyện, có lẽ đức Đạt Lai Lạt Ma muốn nói về chuyện này với người Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam rất anh hùng, rất đáng kính trọng, vị
lãnh đạo Tây Tạng nói. Sau một thời gian khó khăn, khi mức sống của nhiều người
được cải thiện thì sức mạnh tinh thần và tâm linh của người Việt sẽ giúp họ tìm
ra con đường tốt đẹp hơn cho nước Việt Nam. Quý vị đừng quá bi quan. Không nên
nhìn vào những khát khao vật chất nhất thời sau một giai đoạn quá đói khổ mà
mất tin tưởng vào sức mạnh tinh thần của người Việt Nam.
Riêng với người Phật tử, đức Đạt Lai Lạt Ma nói tiếp, tôi
thiển nghĩ rằng chúng ta nên học hỏi kinh nghiệm của người Thiên chúa giáo mà
đừng chỉ nghĩ đến việc xây chùa hay sự giải thoát cho bản thân mình dưới mái
chùa.
Người viết nhớ đến những giáo huấn của đức Đạt Lai Lạt Ma
tại Dharamsala trong mùa nguyện Monlam của Tây Tạng, vào tháng Năm vừa qua.
Ngài cảnh tỉnh tăng ni Tây Tạng là phải mở ra với thế giới bên ngoài chứ đừng
chấp vào những lễ tục bí hiểm trong chùa, với chiêng trống om xòm.
Vị Tăng thống tối cao này còn nhắc nhở người Tây Tạng là
với dân số chỉ có sáu triệu, nếu người nào cũng muốn vào chùa đi tu mà không
cải tiến được việc tu tập ấy cho tinh ròng hơn để giúp đỡ người khác thì sẽ chỉ
lập ra một hệ thống tư tưởng không có nền tảng trong đời sống. Đấy là quên mất
gốc mà chỉ bám lấy cành.
Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích tiếp về những gì muốn nói
với Phật tử Việt Nam:
Hãy học người Thiên chúa giáo bằng cách bước ra khỏi chùa
mà tham gia vào các sinh hoạt của xã hội. Từ đó mình có thể hiểu ra các vấn đề
của xã hội, của con người, và tìm ra những giải đáp cho các vấn đề ấy từ Phật
pháp. Đấy là một cách Phật giáo đóng góp cho xã hội và cũng tự hiện đại hoá
cùng nhân loại.
Khi tham gia tìm hiểu về xã hội và thế giới bên ngoài,
người Phật tử còn có thể hiểu ra những công trình nghiên cứu của các bộ môn
khoa học và những gì mà Phật giáo có thể đóng góp được cho sự tìm kiếm
ấy.
Và trong mọi hoàn cảnh tình huống, không bao giờ lại để
mất lòng từ bi của mình. Nuôi dưỡng từ tâm chẳng những có lợi cho sức khoẻ của
bản thân mà còn cho đời sống, cho hoà bình của nhân loại.
Nói đến đây, đức Đạt Lai Lạt Ma nở một nụ cười đôn hậu
thánh thiện.
Kết thúc cuộc tiếp xúc đã kéo dài quá chương trình dự
trù, chúng tôi còn đòi thêm một việc!
Xin Ngài gửi tới độc giả tờ Xuân Việt Báo năm Đinh Hợi
một thông điệp hay một lời chúc lành cho năm mới. Trên bàn đã mở sẵn một cuốn
tập toàn giấy phóng, đóng bằng tay tại Hoa Kỳ, ngoài bìa là chữ OM viết theo
Phạm ngữ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma không do dự.
Đặt chân xuống, Ngài chấp bút viết nhanh một hàng chữ Tây
Tạng rồi giải thích với nụ cười. Quý vị sẽ nhận được lời chúc để qua Đặc san
Xuân Đinh Hợi gửi tới mọi người Việt ở trong và ngoài nước nhân dịp năm mới.
Đây là chữ ký cho lời chúc:
Tỳ kheo Tenzin Gyatso.
Chỉ là một nhà sư mà thôi...
Nhưng, đôi khi trăm năm mới có một người như thế...
Lời
Kết
Cuộc
phỏng vấn dự trù 10 phút sau cùng đã kéo dài gấp ba.
Mặc
dù bên ngoài có nhiều người nôn nóng chờ đợi, đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn ra dấu cho
vị bí thư. Ông Takhla bưng ra ba tấm khăn trắng. Theo đúng phong tục Tây Tạng,
đức Đạt Lai Lạt Ma ban phép lành cho ba tấm tơ Tây Tạng rồi choàng lên cổ từng
người khách. Sau đó, Ngài còn yêu cầu mọi người đứng chụp hình bên mình. Đây là
lúc máy ảnh bật lên tí tách và chúng ta có những tấm hình kỷ niệm thật đẹp của
nhiếp ảnh gia Lê Phúc.
Khi
chia tay, đức Đạt Lai Lạt Ma đã chắp tay khấn nguyện rồi mới quàng vai đưa mọi
người ta cửa.
Sau
đó, viên bí thư của Ngài gửi tới chúng tôi lời chúc phúc và thông điệp đầu năm
có ấn son của đức Đạt Lai Lạt Ma cho Giai phẩm Xuân Đinh Hợi của Việt Báo.
Cuộc
tiếp xúc là một kỳ duyên hãn hữu. Vì vậy có bài tường thuật này như một lời
kính cẩn cảm tạ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa (Giai phẩm Xuân Việt Báo Năm Đinh Hợi 2007)
Nguồn: http://dainamaxtribune.blogspot.com/
No comments:
Post a Comment