Nguyễn Gia Kiểng
Trong thời gian tại Pháp Nguyễn Gia Kiểng làm chủ tịch Tổng
Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris nhiệm kỳ 1965-1966[2] và chủ tịch Liên Minh Sinh viên và Công
Nhân Việt Nam tại châu Âu năm 1968. Ông là người lãnh đạo sinh viên và công
nhân Việt Nam có ảnh hưởng lớn nhất tại Pháp cho đến khi về nước.
Về nước ông làm chuyên viên ngân hàng và dạy môn kinh tế chính
trị tại đại học Minh Đức Sài Gòn rồi làm phụ tá Bộ trưởng kinh tế với hàm Thứ
trưởng cho đến ngày 30-4-1975.
Sau ngày 30-4-1975 ông bị chính quyền cộng sản đưa đi tập trung
cải tạo trong hơn ba năm rồi được sử dụng làm chuyên viên dưới chế độ cộng sản
cho đến khi được đi Pháp do sự can thiệp của chính phủ Pháp năm 1982. Trong
thời gian làm việc dưới chế độ cộng sản ông làm quen với một số đảng viên cộng
sản cao cấp sau này là những nhà phản kháng nổi tiếng như Nguyễn
Hộ, La Văn Liếm (Tám
Lâm).
Năm 1982, trở lại Pháp, Nguyễn Gia Kiểng hành nghề kỹ sư và
doanh nhân. Ông trở thành Chủ tịch Tổng giám đốc một công ty tham vấn cho đến
khi nghỉ hưu năm 2005 để dành toàn thời gian cho hoạt động chính trị.
Ngay khi trở lại Pháp, Nguyễn Gia Kiểng cùng một số trí thức,
phần lớn là viên chức cao cấp của chế độ miền Nam Việt Nam, đã từng trải qua
các trại tập trung cải tạo sau ngày 30-4-1975 thành lập một nhóm chính trị sau
này trở thành Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, chủ trương đấu tranh cho dân chủ bằng đường
lối bất bạo động trong tinh thần hòa giải dân tộc. Ông lãnh đạo tổ chức này từ
ngày thành lập.
Từ năm 1988 tổ chức này cho phát hành nguyệt san Thông
Luận gây tranh cãi sôi nổi. Nguyễn Gia Kiểng được biết tới như là nhà
lý luận chính của tờ báo này. Vì lập trường dân chủ ôn hòa Nguyễn Gia Kiểng và
tổ chức của ông bị các tổ chức chống cộng cực đoan đả kích dữ dội, kể cả bị đả
thương trong một lần diễn thuyết tại Hà
Lan năm 1990. Ngược
lại ông và Tập hợp Dân chủ Đa Nguyên cũng được sự ủng hộ mạnh mẽ của những
người dân chủ ôn hòa và dần dần được dư luận chấp nhận, nhất là được những
người cộng sản cởi mở ủng hộ. Phần lớn các tổ chức đối lập dân chủ Việt Nam
hiện nay đều có những lập trường rất gần với những gì Nguyễn Gia Kiểng và tổ
chức của ông đề nghị.
Nguyễn Gia Kiểng viết rất đều trên nguyệt san Thông Luận và
trang Web Thông Luận của Tập hợp Dân chủ Đa Nguyên từ hơn hai
mươi năm qua chung quanh các chủ đề triết lý chính trị, kinh tế, vận động dân
chủ, và đôi khi lịch sử. Nguyễn Gia Kiểng đặc biệt chú trọng hô hào cho văn hóa
tổ chức, coi xã hội dân sự với những tổ chức không thuộc chính quyền như một
điều kiện bắt buộc cho tiến trình dân chủ hóa. Ông là tác giả cuốn sách chính
trị bằng tiếng Việt được đọc nhiều nhất trong những thập niên gần đây: Tổ
Quốc Ăn Năn (đã được Nguyễn
Ngọc Phách dịch sang tiếng Anh: Whence… Whither… Viêtnam?). Dù luôn
luôn tự khẳng định là một người hành động, Nguyễn Gia Kiểng là một trong những
nhà lý luận chính trị có ảnh hưởng hiện nay[cần dẫn nguồn]. Tổ chức mà ông
lãnh đaọ, Tập hợp Dân chủ Đa Nguyên, được coi là tiêu biểu cho khuynh hướng hoà
giải dân tộc[cần dẫn nguồn].
Khi thiên
triều sụp đổ và lịch sử sang trang
(Nguyễn Gia Kiểng)
Đối với Đảng Cộng Sản Việt
Nam, chế độ cộng sản Trung Quốc coi như đã sụp đổ. Nó đang quá bối rối với
những khó khăn nội bộ để có thể hỗ trợ cho chế độ cộng sản Việt Nam. Bắc Kinh
lo cho mình cũng chưa xong còn mong gì giúp được ai. Họ sẽ phải buông Việt Nam
và Triều Tiên dù không muốn như Liên Xô đã từng phải buông Đông Âu trước đây.
Nhưng chế độ cộng sản Việt Nam lại rất cần bám lấy Trung Quốc.
Khi nhận định về Trung Quốc
các chuyên gia thường quên hai điều rất cơ bản. Một là Trung Quốc là một thế
giới hay một đế quốc - hay một thiên hạ theo cách nói của người Trung Quốc- chứ
không phải là một nước, do đó không thể lý luận và dự đoán về nó như người ta
thường làm với một quốc gia. Hai là Trung Quốc vốn sẵn có một văn hóa nghi lễ
lấy hình thức để tạo ấn tượng về nội dung, có khi để che giấu nội dung. Văn hóa
này đã được tăng lên nhiều lần dưới chủ nghĩa cộng sản mà một đặc tính nền tảng
là che đậy sự thực.
Cho đến nay thực trạng Trung
Quốc đã được che đậy dưới lớp vải điều hào nhoáng của một tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế ngoạn mục khiến nhiều người quên rằng kinh tế không phải là vấn đề
nghiêm trọng nhất của Trung Quốc.
Kinh tế Trung Quốc hết thuốc
chữa
Hãy nói ngay về lớp vải điều
đó. Trong gần ba thập niên Trung Quốc đã gây kinh ngạc cho thế giới vì tỷ lệ
tăng trưởng liên tục trên 10%. Tỷ lệ này được hạ xuống 8%, rồi 7% trong những
năm gần đây. Các con số chính thức của Trung Quốc dĩ nhiên là không chính xác
nhưng điều có thể thấy được là hàng hóa Trung Quốc đã tràn ngập các thị trường
thế giới, các công trình xây dựng hoành tráng và các cao ốc đồ sộ mọc lên khắp
nơi, tư bản Trung Quốc đầu tư vào mọi quốc gia, từ Châu Phi đến Châu Âu, Châu
Mỹ qua Việt Nam, Lào và Campuchia. Ảnh hưởng Trung Quốc tỏa rộng. Có những dự
đoán theo đó Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ trong một tương lai gần.
Nhưng rồi bắt đầu có những
ngờ vực. Năm 2001 có cuốn sách The Coming Collapse of China (Sự sụp đổ sắp tới
của Trung Quốc) gây được tiếng vang lớn. Bạn bè đã tóm lược cho tôi cuốn sách
này ; nó sai vì phạm một trong hai sai lầm cơ bản đã được nói ở đầu bài này
nghĩa là lý luận về Trung Quốc như một quốc gia. Dần dần quan điểm của các quan
sát viên về Trung Quốc thay đổi hẳn. Mới đầu người ta tự hỏi liệu Trung Quốc có
thể lâm vào khủng hoảng không ? Rồi Trung Quốc sẽ lâm vào khủng hoảng lúc nào ?
Và bây giờ câu hỏi đặt ra là Trung Quốc sẽ còn che đậy được tình trạng suy thoái
bao lâu nữa và lúc đó tương lai Trung Quốc sẽ ra sao ?
Tất cả những đèn báo động đều
đã đỏ rực. Nợ công của Trung Quốc được ước lượng bởi mọi định chế thẩm định
(rating agencies) là ở mức 300% GDP, nghĩa là cao một cách nghiêm trọng. Nhưng
con số này có thể chỉ là một phần của sự thực bởi vì không bao gồm những khoản
nợ không chính thức hoặc không hợp pháp đầy rẫy trong xã hội Trung Quốc. Thí dụ
như tình trạng tuyệt đại đa số các công ty nhà nước lớn mượn tiền của ngân hàng
trung ương với lãi suất ưu đãi rồi cho các công ty nhỏ hoặc tư nhân vay lại với
lãi suất cao, hay phần lớn các chính quyền địa phương không khai đúng số nợ.
Kinh tế Trung Quốc dựa trên
xuất khẩu nhưng xuất khẩu đã giảm hẳn từ sau cuộc khủng hoảng 2008. Trong năm
2014 vừa qua, ngoại thương Trung Quốc đã sụt 11% (xuất khẩu giảm 3,3%, nhập
khẩu giảm 22%), dầu vậy tỷ lệ tăng trưởng chính thức vẫn là 7,3%. Nhưng làm sao
một nền kinh tế đặt nền tảng trên xuất khẩu lại có thể tăng trưởng 7,3 % trong
khi ngoại thương suy sụp ?
Công ty tham vấn Lombard
Street Research của Anh, vẫn sử dụng những dữ kiện của chính quyền Trung Quốc
nhưng tính lại một cách nghiêm chỉnh hơn, cho biết tỷ lệ tăng trưởng của Trung
Quốc năm 2014 chỉ là 1,7%. Tuy vậy ngay cả tỷ lệ tăng trưởng khiêm tốn này cũng
không thể có vì dựa trên những số liệu sai, thí dụ như các công ty sản xuất rồi
bỏ vào kho vì không bán được hàng nhưng vẫn kể vào sản xuất, và khi sản phẩm đã
hư hỏng cũng không khai v.v.
Một chỉ số đo lường lòng tin
vào một nền kinh tế là chỉ số chứng khoán. Cuối năm 2007 chỉ số chứng khoán SSE
của Trung Quốc lên tới cao điểm 6.000. Sau đó là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008
làm tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới đều suy sụp. Ngày nay hầu
như tất cả các chỉ số chứng khoán đều đã phục hồi được mức độ của năm 2007, các
chỉ số của Mỹ, Đức và Nhật còn vượt xa mức 2007, nhưng chỉ số SSE của Trung
Quốc vẫn chỉ quanh quẩn ở con số 4.000.
Lòng tin vào tương lai của
kinh tế Trung Quốc còn thể hiện qua một con số khác. Kết quả của một cuộc thăm
dò của Hurun Research Institute (Thượng Hải) và vừa được học giả David
Shambaugh nhắc lại trên Wall Street Journal cho thấy 64% các đại gia Trung Quốc
đã hoặc đang chuẩn bị di chuyển ra nước ngoài. Tư bản Trung Quốc đang tháo
chạy. Một hiện tượng khác mà Shambaugh cho biết là chính quyền Mỹ đang theo dõi
sự kiện rất nhiều phụ nữ Trung Quốc giầu có sang Mỹ sinh đẻ để con có quốc tịch
Mỹ. Nếu tương lai Trung Quốc tươi sáng tại sao những người được ưu đãi nhất lại
bỏ đi ?
Trong mọi tiếp xúc với các
chuyên gia nước ngoài các doanh nhân Trung Quốc không còn giấu giếm nữa. Họ nói
thẳng là họ đang sản xuất với mức lời rất thấp hoặc lỗ nhưng vẫn phải sản xuất
theo kế hoạch.
Nhưng kế hoạch nào ? Từ năm
2008 trong khi mọi quốc gia cố gắng vùng vẫy để ra khỏi cuộc khủng hoảng thì
Trung Quốc đã có một chọn lựa khác hẳn. Đó là coi như không có khủng hoảng và
bơm tiền ồ ạt vào sinh hoạt kinh tế, đẩy mạnh chi phí công cộng và ngành xây
dựng để giữ nguyên mức độ tăng trưởng, với hậu quả là số nợ công tăng gấp bốn
lần, các kho hàng của các công ty đầy ứ và rất nhiều thành phố ma xuất hiện tại
rất nhiều nơi. Khủng hoảng càng che giấu lâu bao nhiêu thì càng trầm trọng thêm
bấy nhiêu và bây giờ nó không còn giải pháp.
Năm 2013 khi mới lên cầm
quyền, Tập Cận Bình ra lệnh giới hạn khối lượng tiền tệ bằng cách tăng lãi suất
và kiểm soát tín dụng. Ông đã phải nhanh chóng từ bỏ biện pháp này -đúng trên
nguyên tắc- trước nguy cơ sụp đổ tức khắc ; không những thế, chính quyền Bắc
Kinh còn phải bơm tiền nhiều hơn nữa cho các ngân hàng và công ty. Sự kiện này
chứng tỏ kinh tế Trung Quốc không có thuốc chữa, sự sụp đổ chỉ còn là một vấn
đề thời gian. Thời gian đó có thể rất gần vì ngay cả biện pháp bơm tiền cũng
không còn hiệu quả nhất thời của nó nữa. Năm 2013 nhiều công ty muốn vay tiền
mà không được, hiện nay đại đa số các công ty từ chối vay vì không biết dùng
tiền để làm gì.
Một sự kiện khác cũng chứng
tỏ kinh tế Trung Quốc không cứu vãn được. Giải pháp tự nhiên khi mô hình hướng
ngoại không còn theo đuổi được nữa là tăng cường thị trường nội địa. Đó là điều
Trung Quốc đã làm nhưng đã chỉ khiến kinh tế Trung Quốc nguy ngập hơn. Từ năm
2010, Trung Quốc đã liên tục tăng lương công nhân 10% mỗi năm với hy vọng là họ
sẽ mua sắm nhiều hơn, nhưng mức tiêu thụ nội địa không hề gia tăng vì người
công nhân Trung Quốc chỉ dùng khoản lợi tức mới có để tiết kiệm, phòng hờ khi
đau ốm. Tuy vậy biện pháp tăng lương công nhân này đã có tác dụng làm tăng giá
thành và khiến hàng hóa Trung Quốc khó bán trên các thị trường thế giới. Sự sút
giảm của xuất khẩu cũng do nguyên nhân này. Trung Quốc hiện đã mất gần hết các
thị trường tại Châu Âu.
Chừng nào kinh tế Trung Quốc
sẽ thực sự sụp đổ ? Câu trả lời là : khi chính quyền Bắc Kinh thú nhận. Nhưng
họ có sẽ thú nhận không ? Hiện nay niềm tin rằng kinh tế Trung Quốc "có
sụp cũng còn lâu" chủ yếu là ở chỗ Trung Quốc vẫn còn khoảng 2.000 tỷ USD
công khố phiếu của Mỹ và 1.000 tỷ Euros công khố phiếu Châu Âu. Mặc dù số tiền
này chẳng là bao so với số nợ công của Trung Quốc -ít nhất 30.000 tỷ USD- nhưng
nó đem lại ảo tưởng là Trung Quốc vẫn còn giầu có vì vẫn còn tiền cho Mỹ và
Châu Âu vay. Bắc Kinh sẽ không đụng tới những số tiền này. Có nhiều triển vọng
là họ sẽ tiếp tục như hiện nay cho đến khi thực trạng suy sụp trở thành hiển
nhiên đối với mọi người.
Đất nước Trung Quốc đang bị
hủy diệt
Nhưng kinh tế suy thoái không
phải mối nguy lớn nhất của Trung Quốc. Mối nguy lớn nhất là môi trường. Không
khí tại các tỉnh phía Bắc ô nhiễm tới mức không còn thở được nữa ; nước vừa rất
thiếu vừa nhiễm độc.
Một nghiên cứu phối hợp của
bốn trường đại học MIT (Mỹ), Avraham Ebeinstein (Do Thái), Bắc Kinh (Trung
Quốc) và Thanh Hoa (Trung Quốc) công bố tháng 7-2013 tiết lộ một sự kiện kinh
khủng : tuổi thọ trung bình của khối 500 triệu người dân các tỉnh phía Bắc đã
giảm 5 năm rưỡi trong thập niên 1990 chủ yếu vì môi trường ô nhiễm. Mùa hè 2007
trên chuyến bay từ Tây An tới Côn Minh tôi đọc trên báo China Daily, tờ báo
tiếng Anh của chính quyền Trung Quốc, một nghiên cứu theo đó gần một nửa số
sông của Trung Quốc đã hết nước.
Tháng 3/2013, một nghiên cứu
công phu -từ năm 2010 đến năm 2012- của Bộ Thủy Nguồn và Viện Quốc Gia Thống Kê
của chính quyền Bắc Kinh đưa ra những con số chính xác một cách đáng sợ : Trung
Quốc chỉ còn 22.909 con sông, trên 28.000 con sông đã biến mất. Mỗi con sông
còn lại phải đem nước cho một diện tích khoảng 100 km vuông. Như vậy có nghĩa
là từ 2007 đến 2012 tình trạng thiếu nước đã xấu đi nhiều thay vì được cải
thiện. Nghiên cứu này cũng cho thấy có 400 thành phố hiện chỉ dùng nước bơm từ
lòng đất lên. Kết luận của nghiên cứu này là thay vì gia tăng cung cấp nước từ
nay chính sách quốc gia phải chuyển sang khuyến khích dân chúng tiết kiệm nước.
Tình trạng xuống cấp nguy
ngập của môi trường chỉ một phần rất nhỏ do thiên nhiên, phần rất lớn là do
chính sách tăng trưởng kinh tế hoang dại bất chấp môi trường. Cần lưu ý là bảo
vệ thiên nhiên không phải là ưu tư của văn hóa Trung Hoa và Việt Nam truyền
thống, trái lại người ta ca tụng những anh hùng có chí lớn "sẻ núi lấp
sông". Nó cũng hoàn toàn vắng mặt trong chủ nghĩa cộng sản.
Vài năm trước tôi đọc một bài
phóng sự trên báo Le Monde nói về một con sông có cái tên ngộ nghĩnh là Nộ
Giang, nghĩa là dòng sông giận dữ, chảy từ Trung Quốc sang Myanmar. Lý do khiến
người ta đặt tên như vậy là vì nước sông chảy rất mạnh. Nhưng ngày nay con sông
này còn có một lý do chính đáng khác để nổi giận : nó trở thành nơi đổ rác
chính thức của các thị xã chung quanh. Chính quyền địa phương xây rất nhiều bệ
bê tông để các xe rác của các thị xã có thể đổ rác xuống sông một cách an toàn.
Mỗi ngày hàng trăm tấn rác đủ loại được dòng nước cuốn sang Myanmar và trở
thành một vấn đề của Myanmar.
Năm 2007 tại Bắc Kinh tôi
không nhìn thấy mặt trời dù biết nó ở ngay trên đầu mình vì đang giữa trưa và
trời rất nóng. Không khí đục ngầu vì khói từ các nhà máy không xử lý khí thải.
Tôi hỏi anh hướng dẫn viên từ bao lâu rồi anh không còn nhìn thấy mặt trời nữa.
Anh ta không nhớ.
Năm 2000 lượng nước trung
bình của mỗi người Trung Quốc chỉ bằng 15% mức trung bình thế giới. Bây giờ
tình trạng còn bi đát hơn nhiều. Tại các tỉnh phía Tây trước đây phải đào sâu
xuống 30m mới tìm được nguồn nước, bây giờ phải đào xuống 100m, mặt đất cứng
như bê tông. Đó là hậu quả của việc trồng bông để xuất khẩu quần jean. Một đất
nước trước hết là đất và nước, khi đất đã cằn cỗi, không khí và nước đã ô nhiễm
đến nỗi không thở được và uống được thì cũng chẳng còn gì để nói. Đất nước
Trung Quốc đang bị hủy diệt. Đó là lý do chính khiến rất nhiều người muốn rời
Trung Quốc bằng mọi giá. Họ sợ chết.
Một chế độ tuyệt vọng
Mối nguy nghiêm trọng thứ
hai, cũng nghiêm trọng hơn hẳn sự suy thoái của kinh tế, là bế tắc chính trị.
Các quan sát viên theo dõi tình hình Trung Quốc đều đồng ý rằng đàng sau chiến
dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình là cố gắng tập trung quyền hành về trung
ương và về tay ông.
Tham nhũng chỉ là lý cớ.
Chính Tập Cận Bình cũng tham nhũng, nếu không làm sao ông có thể có một tài sản
trị giá trên 200 triệu USD ? Không khác gì thủ tướng Ôn Gia Bảo trước đây tỏ ra
rất quan tâm đến dân nghèo để rồi người ta phát giác ra rằng ông có hơn 2 tỷ
USD. Các phe đảng của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang
chắc chắn không khoanh tay chờ bị thanh toán. Chủ nghĩa Mác-Lenin đã bị lố bịch
hóa và không thể là xi măng gắn bó 85 triệu đảng viên cộng sản với nhau nữa,
chỉ còn lại sự tranh giành quyền lực và quyền lợi.
Các tỉnh cũng không thể chịu
đựng mãi ách thống trị của trục Bắc Kinh - Thượng Hải và sự chênh lệch giữa các
vùng. Chưa kể là với sự sút giảm bi thảm của nguồn nước một cuộc chiến tranh
giành nước tương tự như ở Trung Đông có thể diễn ra ; trên thực tế đã có xung
đột giữa các tỉnh, thậm chí giữa các huyện trong cùng một tỉnh, để tranh giành
những con sông vừa cạn vừa ô nhiễm.
Cần nhắc lại để nhấn mạnh
rằng, Trung Quốc là một thiên hạ chứ không phải là một nước, lòng yêu nước đối
với một người Trung Quốc chủ yếu là một tình cảm địa phương. Không cứ gì các
sắc dân thiểu số, tuy cùng được gọi là người Hán nhưng một người Hán ở Côn Minh
hoàn toàn không nhìn những người Hán ở Bắc Kinh hoặc Thượng Hải như những đồng
bào. Quan hệ giữa các tỉnh Trung Quốc còn lỏng lẻo hơn nhiều so với quan hệ
giữa các nước Châu Âu, đôi khi còn mang những thù hận chưa được hóa giải của
quá khứ.
Trong suốt dòng lịch sử dài
của nó, sự thống nhất của Trung Quốc đã chỉ được duy trì bằng bạo lực và tàn
sát. Thí dụ như giữa thế kỷ 19 để dẹp cuộc khởi nghĩa ly khai của Hồng Tú Toàn
nhà Thanh đã tàn sát 70% dân chúng các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và
90% dân chúng tỉnh Quý Châu. Tinh thần dân tộc của người Trung Quốc hầu như
không có. Chính vì thế mà các nước rất nhỏ bé và chậm tiến như Mông Cổ và Mãn
Châu đã có thể thiết lập những ách thống trị lâu dài. Các triều đại Nguyên,
Thanh sau cùng đã cáo chung vì tham nhũng và lỗi thời chứ không phải vì là
những ách thống trị ngoại bang.
Bế tắc chính trị của chế độ
cộng sản Trung Quốc cũng đã chứng tỏ không có lối thoát. Khi mới lên cầm quyền
Hồ Cẩm Đào đã muốn nới lỏng dần dần những quyền con người cơ bản với hy vọng
chuyển hóa dần dần về dân chủ trong trật tự nhưng trong những năm cuối, nhất là
từ năm 2011 trở đi, ông đã phải đảo ngược chính sách và gia tăng đàn áp. Năm
2013 Tập Cận Bình lên cầm quyền với một chủ trương rõ rệt : từ chối cải tổ
chính trị, tăng cường độc quyền của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và thanh trừng mọi
khuynh hướng ly tâm trong đảng. Tập Cận Bình thừa kế một Trung Quốc tương tự
như Liên Xô của Gorbachev cuối thập niên 1980. Gorbachev đã thất bại khi cố làm
những thay đổi cần thiết nhưng ít ra cũng đã tránh cho Liên Xô một sự sụp đổ
trong hỗn loạn. Tập Cận Bình trái lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả
chắc chắn sẽ bi đát hơn.
Nhưng việc phải làm đó là gì
? Đó chính là sự chuyển hóa bắt buộc về dân chủ. Các tiến bộ về giao thông và
truyền thông đã thay đổi hẳn thế giới, kể cả Trung Quốc. Tăng trưởng kinh tế
trong ba thập niên qua cũng đã cho người Trung Quốc thêm sức mạnh. Họ đã hiểu
rằng con người phải có những quyền căn bản, họ muốn và ngày càng có thêm khả
năng để đòi hỏi những quyền đó.
Nhưng vấn đề là Trung Quốc
không thể tồn tại với lãnh thổ và dân số hiện nay dưới một chế độ dân chủ vì các
vùng của Trung Quốc quá khác nhau và cũng không muốn chia sẻ một tương lai
chung. Vấn đề cũng là chủ nghĩa cộng sản, chất keo gắn bó các vùng với nhau, đã
trở thành ghê tởm. Trên trang Webwww.ninecommentaries.com do
phong trào Thoái Đảng thiết lập từ tháng 11/2014 hàng ngày trên 50.000 người
tuyên bố ly khai với Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Số người ly khai hiện đã lên quá
200 triệu.
Lịch sử Trung Quốc nói chung
là sự lặp lại của cùng một kịch bản, một kịch bản chưa thay đổi vì thể chế
chính trị vẫn còn là một thể chế tập trung chuyên chính. Kịch bản đó như sau :
một chính quyền được dựng lên trong hoàn cảnh xã hội tan hoang và kiệt quệ ;
chính quyền thành công trong những năm đầu và xã hội dần dần hồi sinh ; xã hội
càng hồi sinh thì nhu cầu kiểm soát càng lớn và chính quyền càng cần tăng cường
bộ máy cai trị ; bộ máy quan liêu vì thế tiếp tục phình ra và sau cùng trở
thành mạnh hơn quyền lực chính trị ; kết quả là quyền lực chính trị suy yếu dần
và tích lũy mâu thuẫn, cuối cùng bị một lực lượng khác đánh đổ sau một cuộc
xung đột làm xã hội suy kiệt ; và kịch bản bắt đầu lại từ số không. Kịch bản
này hiện đã tới màn cuối dưới chế độ cộng sản. Tập Cận Bình đang cố xiết lại để
ngăn ngừa sự xuất hiện của một lực lượng mới.
Khi Nguyễn Tấn Dũng lặp đi
lặp lại là "nhất quyết không để nhem nhúm những tổ chức đối lập", ông
ta chỉ nhắc lại một ám ảnh của quan thầy Bắc Kinh.
Phải lo ngại cái gì ?
Chế độ cộng sản Trung Quốc
còn trụ được bao lâu nữa ?
Như đã nói ở đầu bài này,
đừng nên quên rằng Trung Quốc không phải là một quốc gia mà là một thế giới,
một thiên hạ hay một đế quốc tùy cách nhìn, do đó sự thay đổi chế độ sẽ không
nhanh chóng như trong một quốc gia mà sẽ diễn ra một cách tương tự như sự tàn
lụi của một đế quốc. Các giai đoạn cuối trào của các đế quốc nói chung và của
Trung Quốc nói riêng thường kéo dài khá lâu. Tuy nhiên chúng ta đang sống trong
một thế giới thay đổi dồn dập. Các diễn biến có thể nhanh hơn rất nhiều.
Càng nhanh hơn vì một lý do
khác. Chế độ cộng sản Trung Quốc tồn tại từ sau cuộc thảm sát Thiên An Môn dựa
trên hai hợp đồng bất thành văn miễn cưỡng.
Hợp đồng thứ nhất là nhân dân
chịu đựng chế độ toàn trị, và cả sự tàn phá của môi trường, với điều kiện là
Đảng Cộng Sản duy trì được một mức tăng trưởng kinh tế cao. Ôn Gia Bảo tỏ ra đã
hiểu thỏa hiệp này khi ông nói rằng nếu mức tăng trưởng xuống dưới 8% thì sẽ có
bạo loạn. Hợp đồng này ngày nay đã chấm dứt vì kinh tế suy thoái.
Hợp đồng thứ hai là quần
chúng Trung Quốc chịu đựng bất công xã hội để cho một thiểu số làm giầu với
thỏa hiệp ngầm là như thế họ sẽ có thêm vốn để gia tăng đầu tư thúc đẩy kinh
tế. Hợp đồng này đã bị phản bội khi những người giầu có bỏ ra nước ngoài mang
theo tài sản. Sự phẫn nộ có thể bùng nổ rất dữ dội.
Có cần lo sợ sự sụp đổ của
chế độ cộng sản và sự tan vỡ gần như chắc chắn của Trung Quốc không ? Mối nguy
thường được nói tới là chính quyền Bắc Kinh có thể gây hấn với bên ngoài để kêu
gọi đoàn kết dân tộc và làm dịu những mâu thuẫn bên trong. Nhiều người đang lo
âu trước việc Trung Quốc xây những phi trường trên những đảo nhân tạo tại Biển
Đông. Nhưng sự lo ngại này không cần có. Nó là do cách nhìn Trung Quốc như một
quốc gia thay vì một đế quốc.
Thực tế cho thấy các đế quốc
chỉ gây hấn trong những giai đoạn cường thịnh, trái lại rất nhu nhược đối với
bên ngoài trong những giai đoạn cuối trào, để dồn sức đương đầu với những khó
khăn bên trong. Trung Quốc cũng không phải là ngoại lệ. Trong những lúc suy vi,
các hoàng đế Trung Quốc không những không xâm chiếm các biên quốc mà còn phải
cống hiến những quý phi, có khi cả những công chúa, cho các vua các nước nhỏ
chung quanh để cầu an. Chuyện Chiêu Quân cống Hồ chỉ là một trong rất nhiều thí
dụ. Việt Nam và thế giới sẽ không phải lo ngại một sự gây hấn nào.
Cũng không cần lo ngại cho
người Trung Quốc. Trung Quốc có phân chia thành bốn hay năm nước thì đó cũng
vẫn là những nước lớn bậc nhất thế giới, nhưng đồng điệu hơn và hợp lý hơn
Trung Quốc hiện nay. Điều mà chúng ta có thể chúc cho người Trung Quốc là những
thay đổi cần thiết sẽ diễn ra trong hòa bình.
Thiên triều sụp đổ
Câu hỏi bao giờ chế độ cộng
sản Trung Quốc sẽ sụp đổ không đặt ra, hoặc đặt ra một cách rất khác, đối với
chế độ cộng sản Việt Nam. Đối với một chư hầu, một đế quốc coi như đã sụp đổ
khi không còn là một chỗ dựa nữa.
Đối với Đảng Cộng Sản Việt
Nam, chế độ cộng sản Trung Quốc coi như đã sụp đổ. Nó đang quá bối rối với
những khó khăn nội bộ để có thể hỗ trợ cho chế độ cộng sản Việt Nam. Bắc Kinh
lo cho mình cũng chưa xong còn mong gì giúp được ai. Họ sẽ phải buông Việt Nam
và Triều Tiên dù không muốn như Liên Xô đã từng phải buông Đông Âu trước đây.
Nhưng chế độ cộng sản Việt Nam lại rất cần bám lấy Trung Quốc.
Trong cuộc tiếp xúc ngày
26/6/2014 tại Sài Gòn, ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã không cải chính lời
phát biểu của chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm, theo đó Trung Quốc thỏa thuận viện trợ
cho Việt Nam 20 tỷ USD và cho vay 100 tỷ USD. Chế độ cộng sản Việt Nam rất cần
yểm trợ tài chính này bởi vì do hậu quả của bất tài và tham nhũng kinh tế Việt
Nam thực ra đang ở trong tình trạng phá sản.
Theo phát biểu của chính ông
Trương Tấn Sang tháng 11/2014 tại quốc hội thì tình trạng kinh tế Việt Nam
"rất không thoải mái". Ba phần tư số thu ngân sách (khoảng 30 tỷ USD
năm 2014, giảm nhiều so với năm 2013) được dùng để trả lương, phần còn lại
không đủ để trả nợ. Nói gì tới những chi tiêu tối cần thiết khác.
Một điều cần được nhìn thật
rõ là Đảng Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ là một đảng tự lập. Nó luôn luôn dựa
vào một thế lực bên ngoài nào đó. Ra đời như một phân bộ của Đệ Tam Quốc Tế, nó
đã tranh đấu, rồi cầm quyền, với sự bảo trợ của Liên Xô hoặc Trung Quốc, hoặc
cả Liên Xô lẫn Trung Quốc. Giữa thập niên 1980 khi Liên Xô suy yếu và không còn
bảo trợ được nữa, nó đã vội vã bỏ ngay lập trường thù địch để xin được phục
tùng Trung Quốc. Trái với một nhận định hời hợt không phải Bắc Kinh cố thu phục
Hà Nội mà chính Hà Nội đã cầu khẩn và làm tất cả để được lệ thuộc Trung Quốc.
Trong mấy năm gần đây khi Liên Bang Nga có vẻ mạnh lên ban lãnh đạo cộng sản
Việt Nam cũng đã cố gắng tranh thủ sự hỗ trợ từ Nga. Văn hóa của Đảng Cộng Sản
Việt Nam là một văn hóa chư hầu.
Tất cả những tính toán và kỳ
vọng của họ đều đã hoặc đang sụp đổ. Nước Nga của Putin đã bại sụi sau cuộc
phiêu lưu Ukraine. Đến lượt Trung Quốc cũng chao đảo và sắp sụp đổ. Rất có thể
là chính Bắc Kinh đã nói với Hà Nội là hãy tìm những nguồn hỗ trợ khác vì họ
không còn khả năng giúp đỡ ai cả. Điều đó có thể giải thích những chuyến công
du Hoa Kỳ dồn dập của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam gần đây, kể cả chuyến
đi sắp tới của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Những chuyến thăm viếng này đều do
sáng kiến của Hà Nội.
Lịch sử không phải chỉ sắp
sang trang mà đang sang trang. Mọi người Việt Nam đều phải sáng suốt để tránh
những ngộ nhận tai hại. Những thành viên bộ chính trị và ban bí thư Đảng Cộng
Sản Việt Nam có thể thù ghét nhau vì tranh giành quyền lực và quyền lợi, nhưng
họ đều hoàn toàn đồng ý với nhau là phải dựa vào Trung Quốc để duy trì chế độ
độc tài toàn trị. Tất cả đều chống dân chủ. Tất cả đều đồng ý rằng "đi với
Tầu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng" và tất cả đều đồng ý chẳng thà
mất nước chứ không mất đảng. Không có một ngoại lệ nào cả.
Nhưng bây giờ họ không còn
chọn lựa nào khác là đi với Mỹ ("Mỹ" phải được hiểu là các nước dân
chủ) vì họ không dựa vào Trung Quốc được nữa. Chiến lược của họ trong lúc này
chỉ là cố kéo dài thời gian hấp hối của chế độ và làm mất thêm thời giờ của
nước ta trong cuộc chạy đua về tương lai, dù chúng ta đã mất quá nhiều thời giờ
và đã quá chậm trễ. Chúng ta không được quyền có một ngộ nhận nào cả.
Mọi ưu tư của chúng ta phải
dồn vào cố gắng để đất nước bước vào kỷ nguyên dân chủ một cách nhanh chóng
nhất trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc để chúng ta có thể lập tức
cùng nắm tay nhau chinh phục tương lai.
Nguyễn Gia
Kiểng
(04/2015)
(04/2015)
No comments:
Post a Comment