Trung Quốc bước chân vào chiến lược thôn tính Việt Nam từ khi nào?
Cát Linh, RFA
Hai dự thảo luật gây
nhiều tranh cãi nhất và sóng gió nhất sau kỳ họp Quốc hội thứ 5, khoá XIV của
Đảng Cộng sản Việt Nam tạm thời đã có kết quả. Vấn đề là cả hai dự luật này đều
bị người dân phản đối với nguyên nhân có liên quan sâu rộng đến Trung Quốc và
các chính sách của Trung Quốc.
Nỗi khắc khoải từ năm 1951
“Tôi thấy cái nỗi khắc
khoải nhất của ông ấy là ông ấy lo cho âm mưu ngày càng lộ liễu, càng nguy hiểm
của Trung Quốc, độ can thiệp ngày càng sâu vào nội tình của đất nước Việt Nam.”
Ngay lúc bấy giờ nỗi
ray rức nhất của ông là ông thấy mưu toan của Trung Quốc là bàn tay đã thọc sâu
quá rồi vào trong nội tình của đất nước.”
Nhân vật mà Giáo sư
Tương Lai nhắc ở trên là cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, trong một lần gặp mặt vào
tháng 5 năm 2008.
Tôi thấy cái nỗi khắc
khoải nhất của ông ấy là ông ấy lo cho âm mưu ngày càng lộ liễu, càng nguy hiểm
của Trung Quốc, độ can thiệp ngày càng sâu vào nội tình của đất nước Việt Nam.
-Giáo sư Tương Lai
-Giáo sư Tương Lai
Cũng trong một bài
viết mới nhất do Giáo sư Tương Lai email cho chúng tôi, ông kể lại một số chi
tiết cho thấy “nỗi khắc khoải” của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thực chất đã xuất
hiện từ năm 1951. Năm 1951 trở về sau khi vượt Trường Sơn ra Việt Bắc dự Đại
hội II của Đảng, ông Võ Văn Kiệt được cử “đi thực tế” rút kinh nghiệm về công
tác thuế nông nghiệp tại nông thôn miền Bắc. Từ khi đó, ông bắt đầu hiểu ra và
nói rằng “dị ứng” với những bài học mà các cố vấn Trung Quốc chuyển tải vào
nước ta. Vì thế, ông từ chối không đi Bắc Kinh và xin trở về ngay Nam Bộ.
Một số tài liệu ghi
rõ, khoảng thời gian năm 1946-1954 xảy ra cuộc chiến tranh Pháp – Việt Minh,
không ai là không biết tầm quan trọng của viện trợ của Cộng Sản Trung Quốc cho
Cộng Sản Việt Nam. Đặc biệt, một chi tiết quan trọng trong bài viết của tác giả
Phạm Cao Dương vào năm 2009 có ghi rõ: Trung tuần tháng 8 năm 1950, khi hai
đoàn cố vấn quân sự, một do Vi Quốc Thanh và Đặng Dật Phàm cầm đầu từ Quảng Tây
và một do Trần Canh hướng dẫn từ Vân Nam đến bộ chỉ huy tiền phương của Việt
Minh ở Quảng Uyên, Cao Bằng và được Võ Nguyên Giáp và Trần Đăng Ninh đón tiếp
và thuyết trình.
Theo ông Phạm Cao
Dương, đây là thời điểm then chốt bắn phát súng đầu tiên cho tầm quan trọng của
viện trợ mà Cộng Sản Trung Quốc dành cho Cộng Sản Việt Nam.
Chi tiết này được tác
giả Qiang Zhai đề cập thêm trong cuốn “China and the Vietnam wars” là trong
chuyến đi Bắc Kinh từ 25-6 đến 8-7-1955 của Hồ Chí Minh, Bắc Kinh đã đồng ý
viện trợ 800 triệu tệ (200 triệu USD) để xây 18 dự án, trong đó có nhà máy xi
măng Hải Phòng, nhà máy điện Hà Nội, nhà máy dệt Nam Định.
Cũng theo tác giả
Qiang Zhai, vào tháng 5-1963, lúc miền Nam đang căng thẳng trong cuộc khủng
hoảng Phật Giáo, Chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ sang Hà Nội, nói với Hồ Chí
Minh: “Trung Quốc đang đứng bên cạnh các đồng chí. Nếu chiến tranh bùng
nổ,Trung Quốc là hậu phương.”
Theo lời kể lại của
Giáo sư Tương Lai, ông Võ Văn Kiệt đã nhìn thấy sức ép của Bắc Kinh thời điểm
diễn ra Hội nghị Genève. Việc Bắc Kinh viện trợ vũ khí và cố vấn giúp Việt Nam
đánh thực dân xâm lược nhằm tạo ra toan tính lâu dài để chờ ngày bành trướng,
buộc chính quyền Việt Nam phải ngừng chiến và chấp nhận vĩ tuyến 17.
Sau đó, Đặng Tiểu Bình
phát động cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 là câu trả lời rõ ràng
nhất cho âm mưu bành trướng của Trung Quốc nhắm vào Việt Nam.
Tựu chung lại, để nhận
định một cách khái quát nhất về thời điểm này, chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn
cho biết:
“Suốt 4 ngàn năm lịch
sử của mình, cuộc chiến tranh chủ yếu của Việt Nam là với phương Bắc. Qua bao
nhiêu thời, từ khi Bắc thuộc rồi lấy lại độc lập. Có độc lập rồi thì đến thời
tiền Lê, Lý, Trần, hậu Lê, Nguyễn, Tây Sơn thì đều chống trả với phương Bắc.
Ngay cả đến thời kỳ cận đại thì năm 56 bị xâm lấn ở Hoàng Sa, 74, 79 rồi 88.
Nhân dân Việt luôn luôn phải phòng vệ trước phương Bắc mặc dù vẫn phải giữ cái
hữu nghị đối với họ.”
Việt Nam thời kỳ đổi mới
Thời gian gần đây,
trong nước tung ra một video lời phát biểu của Phó Tổng cục trưởng Tổng cục
Chính trị Công an, Giám đốc Học viện Chính trị Công an Nhân dân Trương Giang
Long công khai cảnh báo: “Trung Quốc, không bao giờ từ bỏ dã tâm thôn tính
chúng ta. Mà không phải thời ông Tập Cận Bình đâu, ông khác lên cũng sẽ như vậy
thôi. Câu chuyện là, bao giờ họ sẽ lấy và lấy bằng cách nào…”
Theo Chuyên gia kinh
tế Huỳnh Bửu Sơn, bắt đầu vào thập niên 90, cả Trung Quốc và Việt Nam đều bắt
đầu chính sách mở cửa. Ông đánh giá Việt Nam lúc đó có những cái tích cực hơn
cả Trung Quốc.
“Những người chủ
trương đổi mới phải nói là ông Võ Văn Kiệt, là 1 trong những người thực hiện
thành công, rất tốt cái đổi mới, mở cửa cho Việt Nam. Cái đó tôi nghĩ không chỉ
người trong nước mà cả thế giới cũng công nhận như thế.”
Năm 1986, Việt Nam bắt
đầu công cuộc “Đổi mới” chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Với cuộc cải cách này, Việt Nam đã đưa
GDP tăng trưởng liên tục từ năm 1986 đến 1996 với mức tăng trưởng bình quân
6,6%/năm. Lạm phát từ 3 con số được đưa về 12,7% năm 1995 và 4,5% năm 1996. Một
thành tựu vẫn luôn được nhắc đến khi nói về giai đoạn này là Việt Nam từ một
nước thiếu ăn đã có dư gạo để xuất khẩu.
Giáo sư Tương Lai cũng
ghi nhận thành tựu kinh tế của Việt Nam giai đoạn này là nét độc đáo của một
tầm nhìn mang đậm hình ảnh của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
“Trong bối cảnh ấy,
ông Kiệt đã tranh thủ mời những chuyên gia của chế độ cũ tham gia với ông, như
ông Oánh, ông Nguyễn Văn Hảo, đặc biệt ông ấy thành lập 1 nhóm gọi là nhóm Thứ
Sáu để sinh hoạt và góp ý kiến.”
Tuy nhiên, theo ông
Huỳnh Bửu Sơn, những năm về sau, những chính sách tích cực về kinh tế của Đặng
Tiểu Bình làm cho Trung Quốc có những thành công rất lớn và tốc độ phát triển
kinh tế mạnh hơn.
Ngược lại, với Việt
Nam thời điểm đó, ông Huỳnh Bửu Sơn chia sẻ:
“Trong khi đó, cái đổi
mới của Việt Nam đến khoảng đầu năm 2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
Châu Á làm cho kinh tế Việt Nam chậm lại trong 1 thời gian, đương nhiên nó làm
cho nền kinh tế của mình không phát triển như trước.
Như vậy, trong mối
quan hệ giữa 2 nền kinh tế thì 1 chuyện xảy ra đó là mình mua hàng của
Trung Quốc nhiều hơn, dẫn đến chuyện nhập siêu của mình càng lớn và quan hệ
ngoại thương giữa mình và Trung Quốc càng lớn.”
Hiện tại
Mặc dù nhấn mạnh rằng
nhập siêu không gọi là một “lệ thuộc”, nhưng theo ông Huỳnh Bửu Sơn, do vị trí
địa lý của 2 quốc gia, và giá mua nguyên vật liệu từ Trung Quốc luôn rẻ hơn từ
các nước khác.
Mối nguy của việc 3
đặc khu có thể biến thành các lãnh thổ của Trung Quốc ở Việt Nam là rất lớn.
Chính vì vậy ngay những người dân bình thường ở Việt Nam cũng bày tỏ lo lắng.
-Phạm Chi Lan
-Phạm Chi Lan
“Nhất là khu vực kinh
tế quốc doanh của Việt Nam lại có nhu cầu về nguyên liệu vật tư rất mạnh từ
Trung Quốc.”
Một ví dụ về ngành dệt
may, theo Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2017, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng
nguyên phụ liệu dệt may từ Trung Quốc về Việt Nam đạt gần 9 tỷ USD (khoảng
204.800 tỷ đồng), chiếm hơn 42,7% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này.
Ở một lĩnh vực khác,
Trung Quốc là nhà đầu tư nhiều dự án nhiệt điện tại Việt Nam, than mua từ thị
trường này cũng đang có giá cao nhất so với các thị trường khác. Theo thống kê
của Tổng cục Hải quan cho biết từ đầu năm đến hết tháng 8, cả nước nhập khẩu
gần 9,374 triệu tấn than, tổng giá trị kim ngạch đạt gần 934 triệu USD.
Sự phụ thuộc của Việt
Nam vào nền kinh tế Trung Quốc như ông Huỳnh Bửu Sơn đã phân tích ngày càng thể
hiện rõ. Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan là người đưa ra quan điểm đồng thuận.
Bà cho biết nền kinh tế Việt Nam hiện đang phụ thuộc rất lớn vào Trung Quốc về
nguồn cung cũng như xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam. Đây cũng chính là
nguyên nhân cho nỗi lo khi dự thảo Luật Đặc khu ra đời
“Mối nguy của việc 3
đặc khu có thể biến thành các lãnh thổ của Trung Quốc ở Việt Nam là rất lớn.
Chính vì vậy ngay những người dân bình thường ở Việt Nam cũng bày tỏ lo lắng.”
Vào tháng 9-2017, ông
Lưu Vân Sơn, ủy viên Thường vụ Bộ chính trị Trung Quốc, trong chuyến kinh lý Hà
Nội có lời miêu tả mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là “Hai nước có cùng số
phận”.
Ngầm ý của câu nói này
ra sao, có lẽ đã thể hiện rõ trong những chuyển biến ở Việt Nam, từ kinh tế,
chính trị, cho đến du lịch.
No comments:
Post a Comment