CÓ
"KẾT" ĐÂU MÀ "BỘI"?
Người Âu Mỹ ngày nay đa
số sống rất cởi mở nên giữa vợ chồng đôi khi chẳng cần giấy má chi hết. Ưng thì
dọn vô sống với nhau, gọi là "live in girl/boy friend". Một ngày nào
bỗng thấy không hạp nhau nữa thì khuân đồ ra. Nhưng dù không có một hôn thú hẳn
hoi thì cũng đã có nhiều anh chị sống với nhau lâu dài; thậm chí đã có đôi cặp
diễn viên điện ảnh nổi tiếng đã sống như thế đến mấy chục năm. Nay thì Susan
Sarandon và Tim Robbins đã rã gánh; nhưng Goldie Hawn và Kurt Russell thì vẫn
còn tiếp tục hú hí như đã hú hí 32 năm qua. Họ có chỉ trăng thề hay không thì
đó là chuyện riêng giữa họ với nhau. Dù sao thì ngay bây giờ họ có lẽ đều đã đến
thời tóc bạc răng long cả rồi. Và thế là đã rất đáng được ca tụng khi nhớ lại
là hồi hai năm trước đã từng có một chị rất sexy và cũng rất nổi tiếng, đã làm
đám cưới rình rang với một tuyển thủ bóng rổ chỉ để ly dị trong vòng mấy chục
tiếng đồng hồ sau.
Nước ta không hiểu đã
có cặp nào nổi đình đám nhờ sống lâu với nhau mà chẳng cần thề thốt theo kiểu
"till death do us part" (chỉ tới chết mới chia li)?. Người đông
phương vốn kín đáo nên chằng mấy ai khoe chuyện riêng. Thảng hoặc lắm thiên hạ
mới biết chuyện đã có ông bà cụ nào đó sống đến sáu bảy chục năm với nhau (nhờ
đọc cáo phó trên mặt báo). Đâm tiếc đã chẳng biết được sớm hơn để hỏi xem bí
quyết nào giúp các cụ chịu đựng nhau lâu đến thế. Truyện cổ cũng có cái đáng được
ca tụng, mà không vì đôi nam nữ đó sống đến hàng kỳ lão với nhau. Tin hay không
thì tùy; nhưng đám trẻ mới lớn dường như ai cũng biết truyện Lưu Bình Dương Lễ.
Tóm tắt như vầy: Lưu Dương là hai bạn thân, Dương đỗ đạt còn Lưu thì cứ mãi lo
hưởng thụ nên ạch đụi hoài. Dương làm quan, quyền cao chức trọng nhưng nhứt định
xua đuổi bạn hiền thay vì mời vào dinh để cùng thù tạc. Lưu tức mình bỏ đi, gặp
một phụ nữ đẹp và được cô nầy khuyến khích hãy lo "luyện thi" thay vì
cứ đàn đúm ăn chơi. Sau khi nhờ nàng tận lực giúp cho dùi mài kinh sử, Lưu cuối
cùng đã đỗ đạt. Nhớ lại chuyện bị bạn thân hắt hủi, Lưu mũ áo đến thăm Dương và
khi đó mới sửng sờ nhìn thấy người nữ đã bao năm cơm bưng nước rót giúp mình ăn
học thành tài chính là vợ bạn.
Câu chuyện được truyền
tụng để vinh danh tình bạn và tình vợ chồng chỉ có vậy. Họ sắp xếp thế nào để
thực hiện điều mà ngày nay gọi là ménage-à-trois như truyện kể ( hoặc sau khi
thành nhân thành tài rồi thì chàng Lưu có đòi tiếp tục báo cô hay lẳng lặng bỏ
đi sau khi nói đôi ba lời ân nghĩa) thì không ai nói tới. Tác giả cũng dĩ nhiên
không bàn luận gì đến điều rất đáng nghi là liệu mấy năm trước, chàng Lưu chỉ
cơm no ngày hai bữa rồi dành trọn thời giờ để dùi mài kinh sử hay cơm no rồi thì đòi cho cật được ấm?. Truyện
cũng dĩ nhiên không đả động tới chuyện liệu có phải lúc nào Châu Long cũng chỉ
biết cắm đầu lo cho bạn chồng no mà quên chuyện mình cũng cần được ấm?. Nghi
như vậy là đã làm hỏng tình bạn cao quí giữa hai bậc trượng phu và nhứt là làm
cho tình yêu và lòng tin của Dương quân và vợ trở nên thô tục. Điều rõ ràng có
thể được suy diễn là đã có một kết ước -- hoặc bất thành văn hoặc được ghi trên
văn tự hẳn hoi -- viết (ngay cả) bằng chữ thảo trên một thanh tre, ghi lại (tối thiểu) đôi điều được thỏa thuận
giữa vợ chồng Dương Lễ.
Đời xưa còn có chuyện
quan trọng hơn -- và nghiêm chỉnh hơn -- vì là chuyện Tàu và được ghi trong
sách đàng hoàng, liên quan tới một anh mang rất nhiều tước vị (danh sĩ, thuyết
khách, quân sư, biện sĩ, thầy dùi ...) tên là Tô Tần. Sách truyện thời Chiến Quốc
ghi lại lúc anh Tô thuyết Tề Mẫn Vương, trong đó có đoạn như vầy " ... Triệu đánh úp Vệ, Vệ cắt thành cầu hòa.
Vua Vệ đi chân không qua cầu viện vua Ngụy (Vũ Hầu). Vua Ngụy khoác áo giáp, mài lưỡi kiếm đánh nhau với Triệu trong
thành Hàm Đan, kỵ mã chạy mù, miền từ Hoàng Hà tới Thái Hàng Sơn náo loạn, Vệ
nhờ vào đó mà (rãnh tay )thu thập binh lính tiến lên phia bắc, phá được Cương
Bình, hạ được ngoại thành ở Trung Mâu. Không phải là Vệ mạnh hơn Triệu: Vệ
như mũi tên nhọn mà Ngụy là cây nỏ và
dây cung, nhờ sức của Ngụy mà Vệ chiếm được đất Hà Đông, làm cho Triệu phải sợ
...".
Câu chuyện do các cụ Giản
Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch, được "cóp" lại ở đây, không nói rõ Vệ và
Ngụy có ký với nhau một cái, tạm gọi là "Hiệp Ước Hỗ Tương Phòng Thủ"
hay không; thành thử không biết sau khi cứu Vệ thì Ngụy Vũ Hầu có buộc Vua Vệ
phải chuyển những cánh rừng đầu nguồn cho Ngụy khai thác, hoặc đòi cắt ngang
chín đoạn sông Hoàng của Vệ để làm của riêng ??!!. Điều cần nêu là vua nước Vệ chẳng những đã may mắn được Ngụy
quân giúp đánh chận quân xâm lược mà còn được phép đánh thẳng lên lãnh thổ Triệu ở phía bắc, chiếm Cương Bình, Trung
Mâu và Hà Đông khiến Vua Triệu sợ phải rút quân (trước khi phải ngồi vào bàn hội
nghị ba bốn bên gì đó cam kết để cho Vệ yên thân?). Bởi thế mình phải tin là đã
có một kết ước giữa Ngụy và Vệ. Bằng không thì Ngụy đã chẳng buồn hành quân giải
cứu mà có lẽ cũng chẳng cho phép Vệ quân Bắc tiến.
Điều đáng bàn ở đây là
người đời bao giờ cũng khó tin nhau nên lúc nào cũng đòi phải có giấy tờ làm bằng,
hoặc ít nữa, nếu gặp lúc khan hiếm giấy mực thì cũng phải cắt máu ăn thề; hoặc
giả nếu sợ cắt máu đau đầu ngón tay thì cũng phải rót ra đôi ba ly trước khi
ngước lên trời láp giáp đôi ba điều với nhau rồi ực mỗi người một ly để coi như
đã có trời đất chứng giám mối liên kết gì đó hai người, hay ba người, hay hai
ba chục phe với nhau. Liên hoành và Hợp tung là hai loại kết ước đã được các "chú
ba" nói hoài từ mấy ngàn năm nay. Và rồi tuy chẳng hề mô phỏng các chú,
các chính khách nhiều quốc gia cận đại lẫn hiện đại cũng đã ngồi lại với nhau uống
máu ăn thề (kiểu mới, có cả săm banh và trứng caviar đen) trước khi công bố những
bản văn in ấn tử tế cho cả bạn lẫn thù biết là từ phút đó, họ đã là "đồng
minh có kết ước", sẽ chẳng những không chiếm đất của nhau mà còn sẽ mang
quân đánh hộc máu những kẻ nào ỷ mạnh hiếp đáp thằng bạn nhỏ trong nhóm mình. Tất
nhiên mấy thằng bạn nhỏ đó cũng phải cam kết (cho phải phép) giúp ông bạn lớn của
mình nếu chẳng may ông lớn đó bị một thằng đầu gấu -- hoặc một nhóm mấy thằng lỏi
bị một thằng đầu gấu xui dại -- hè nhau tấn công. Ấy là nói cho đúng chữ nghĩa.
Chứ còn một khi đã ký với nhau những văn bản gọi là Hiệp Ước, Hiệp Định, Minh Ước
đa phương hay song phương thì bao giờ ông to nhứt, của ăn của để đầy kho, xe
tăng máy bay tàu bè bom đạn hỏa tiễn ấp lẫm đến mức không còn chỗ chứa phải
mang vô ụ hoặc mang cho (gọi là quân viện) ... bao giờ cũng đứng chót vót trên
đầu làm minh chủ, điều động sai phái và bảo bọc cho cả đám lố nhố ở dưới.
Từ thế chiến thứ nhì
thì minh chủ của khối các nước gọi là đồng minh chống xâm lăng, độc tài, phát
xít và Cộng Sản bao giờ cũng là chú Sam vì Mỹ là siêu cường quốc. Kiểm lại giấy
tờ thì Hoa Kỳ đã và đang cầm đầu:
1.
Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), ký kết
ngày 4/4/1949, mà ngày nay thành viên gồm tổng cộng tới 28 quốc gia Âu Châu và
Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Albania, Bỉ, Bungari, Canada, Croatia, Cộng Hòa Czech, Đan Mạch,
Estonia, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungari, Iceland,
Ý, Latvia, Lithuania, Luxembourg, Hòa Lan, Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha,
Rumani, Cộng Hòa Slovak, Slovenia, Tây
Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và Anh)
2.
Minh Ước ANZUS ký ngày 1/9/1951 giữa Hoa
Kỳ, Úc và Tân Tây Lan
3.
Liên Phòng Đông Nam Á (SEATO) ký ngày
8/9/1954 giữa Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Tân Tây Lan, Pakistan, Philippines, Thái Lan và
Anh.
4.
Minh Ước Rio (Rio Treaty) ký ngày
2/9/1947 giữa 21 quốc gia Mỹ Châu, gồm Hoa Kỳ, Argentina, Bahams, Bolivia,
Brazil, Chi Lê, Colombia, Costa Rica, Cuba, Cộng Hòa Daminicana, Ecuador, El
Salvador, Guatemala, Haiti, Honduras, Panama, Paraguay, Peru, Trinidad &
Tabago, Uruguay và Venezuela.
Trong bốn Minh Ước
phòng thủ đa phương, qui định việc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của các nước
thành viên, thì hiện chỉ có NATO là còn liên tục được nhắc tới trong các câu
chuyện thời sự. ANZUS thì đôi khi được nói tới vào thời chiến tranh VN vì có
quân Úc và Tân Tây Lan tham chiến. SEATO giải thể năm 1977 sau khi chiến tranh
VN kết thúc và Rio thì hầu như đã biến dạng cho dẫu chưa chính thức bị khai tử.
Ngoài các minh ước đa
phương thì Hoa Kỳ cũng đã ký các hiệp định hoặc thỏa ước song phương:
1.
Với Philippines vào ngày 30/8/1951
2.
Với Nhật Bản ngày 19/1/1960 thay cho Hiệp
Ước An Ninh Mỹ Nhật ký ngày 8/9/1951. Hiệp ước nầy là hậu quả của việc Nhật bị
cấm tái vũ trang sau khi Nhật Hoàng chấp nhận đầu hàng. Từ đó Hoa Kỳ coi như là
chiếc dù quân sự bao che Nhật.
3.
Với Đại Hàn Dân Quốc vào ngày 1/10/1953
sau cuộc chiến Triều Tiên.
4.
Với Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) ký
ngày 2/12/1954 và bắt đầu thi hành từ ngày 3/3/1955. Bản văn nầy mệnh danh là
Thỏa Hiệp Hỗ Tương Phòng Thủ Trung Mỹ nhằm ngăn ngừa Trung Cộng đánh chiếm Đài
Loan trong thời gian từ 1955 tới 1979. Sau thời gian nầy, một số điều khoản
trong thỏa hiệp được đưa vào Đạo Luật Quan Hệ Với Đài Loan (Taiwan Relations
Act).
Thỏa hiệp song phương
Hoa Kỳ/ Đài Loan giúp Đài Loan bảo vệ các hải đảo Kim Môn (Kinmen hay Quemoy)
và Mã Tổ (Matsu) khi 2 hòn đảo nằm sát Hoa Lục nầy bị Trung Cộng pháo kích hàng
ngày hồi năm 1958. Kế đó còn có quần đảo Bành Hồ (Pengshu, tây phương gọi là
Pescadores) cũng do chính quyền Đài Loan cai trị. Trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa
VN, chính phủ của TT Ngô Đình Diệm có quan hệ tốt đẹp với chính phủ Trung Hoa Dân
Quốc do TT Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek) lãnh đạo. Quan hệ đó kéo dài sang
tới thời Đệ Nhị Cộng Hòa VN giữa chính phủ dưới quyền TT Nguyễn Văn Thiệu với
các chính phủ THDQ lần lượt do các TT Tưởng Kinh Quốc (Chiang Ching-kuo) trưởng
nam của TT Tưởng Giới Thạch và TT Lý Đăng Huy (Lee Teng-hui) điều hành. Chúng
ta có lẽ vẫn còn nhớ là trước khi quân CS tiến chiếm Saigon thì Đại Sứ VNCH ở Đài
Loan là ông Nguyễn Văn Kiểu, bào huynh của TT Thiệu, và máy bay chở ông Thiệu tị
nạn đã dừng chân trước tiên ở Đài Bắc.
Các thỏa hiệp song
phương kể trên giải thích lý do tại sao hồi năm ngoái Philippines đã rất mạnh
miệng phản đối lẫn đưa chiến hạm đến nghênh cản khi HQ TC kéo tới uy hiếp để
chiếm đóng một bãi đá ngầm do Phi kiểm soát trong quần đảo Trường Sa; trong khi
VN -- cũng trong hoàn cảnh tương tự -- lại hoàn toàn im tiếng và tỏ ra ngoan
ngoãn chấp nhận mọi hành động xâm lăng trắng trợn của Trung Cộng vào hải phận
VN.
Đối với người dân miền
Nam VN thì điều đáng buồn khi kiểm lại các thỏa hiệp an ninh phòng thủ hỗ
tương, song phương hoặc đa phương, mà Mỹ đã ký kết, thì Republic Of Vietnam
chưa bao giờ có tên.
Chính phủ VNCH do bang
giao tốt đẹp với Đài Loan nên hồi còn làm TT Đài Loan, ông Lý Đăng Huy tỏ ra rất
có thiện cảm và đã từng khuyến cáo Saigon phải cố làm sao đạt tới một hiệp ước
song phương với Mỹ để buộc Mỹ vào nỗ lực bảo vệ sự an toàn lãnh thổ lẫn nền dân
chủ tự do cho nhân dân miền Nam một cách
chính thức thay vì chỉ dựa vào những tuyên bố miệng của các TT Mỹ từ thời
TT Eisenhower cho tới thời TT Ford. Những lời tuyên bố -- chẳng hạn như của TT
Kennedy hồi năm 1961 -- hoặc TT Nixon hồi 1972, đều chỉ nhắm vận động và trấn
an công luận Mỹ thay vì là một cam kết. Mà kết ước dứt khoát trên giấy trắng mực
đen bằng một thỏa hiệp ký giữa hai chính phủ lại là điều mà rõ ràng phía Mỹ
không hề muốn. Bởi vậy mà từ năm 1965 khi Mỹ ào ạt đổ quân vào VN cho đến năm
1973 khi Mỹ triệt thoái toàn bộ lực lượng quân sự trong cái gọi là "Decent
Interval" (Một khoảng thời gian thỏa đáng) để mang lại cái gọi là
"Peace With Honor" (Hòa bình trong danh dự); VNCH không hề là thành viên trong bất cứ hiệp ước an ninh nào do Mỹ đứng
đầu.
Ngang đây, có lẽ chúng
ta cũng nên nhìn lại định nghĩa của chữ "Ally" mà chúng ta vẫn dịch
là "đồng minh". Tự điển ghi danh từ
"Ally" là "A sovereign or state associated with
another by treaty or league" (Đồng
minh : Một chủ quyền hoặc một quốc gia kết liên với một quốc gia khác trong một
hiệp ước hay một liên minh). Còn động từ
"To ally" thì được định nghĩa
là "to unite formally, as by treaty, league, marriage, or the like"
(Lập quan hệ đồng minh : kết hợp chính
thức bằng một hiệp ước, liên minh, hôn phối hoặc tương tự như thế").
Vậy thì liệu chúng ta có ngộ nhận, hay quá lạc quan, khi coi Mỹ là đồng minh
thay vì là nước ủng hộ chúng ta chỉ vì chúng ta đáp ứng được mục tiêu nhắm tới
của Mỹ? Thực tế cũng cho thấy Mỹ và VNCH chưa hề thực sự là đồng minh với nhau.
Mỹ chỉ tự động đến VN để thực thi chính sách be bờ nhằm ngăn chận
làn sóng đỏ và giữ cho miền Nam đừng rơi vào tay CS để châm ngòi cho các nước
trong quĩ đạo Mỹ ở Đông Nam Á lần lượt lọt vào tay CS theo lý thuyết domino mà
Mỹ tin tưởng. Nói cách khác chính phủ Mỹ chưa bao giờ thực tâm và chính thức
cam kết gì với chúng ta. Họ đến đất nước chúng ta như những chủ tiệm ăn KFC hay
tiệm cà phê Starbucks để mở một cơ sở làm ăn: khi thấy tiệm ế ẩm thì họ thản
nhiên dẹp tiệm rồi mang tiền đầu tư vào nơi có đến cả tỉ rưỡi miệng ăn. Thản
nhiên đến tàn nhẫn nếu nhớ lại là đúng ra dạo lễ Giáng sinh năm 1972, CSBV đã gần
như sắp đầu hàng khi Mỹ mở chiến dịch dội bom Hà Nội và Hải Phòng. Chính các
viên chức BV nhìn nhận là họ đã định đầu hàng nếu Mỹ tiếp tục dội bom thêm 1 tuần
nữa. Nhưng rồi ông Nixon đã ngưng các cuộc không tập khi BV chịu quay lại nói
chuyện ở Paris. Vận nước mình tận nên ông Nixon mới gặp vụ Watergate và đồng thời
phải hứng chịu những áp lực nặng nề của cả một hệ thống truyền thông bịp bợm và
một Quốc Hội phản chiến. Các dân biểu nghị sĩ thuộc đảng Dân Chủ đa số kiểm
soát Quốc Hội Mỹ nhiệm kỳ 94 trong thời gian các TT Đảng Cộng Hòa Nixon và và
Ford ngồi ở White House, hiển nhiên đã viện dẫn việc nước Mỹ không hề kết ước
gì với chúng ta để cắt hết mọi khoản viện trợ. Chính nước Mỹ đã ngay cả vi phạm
bản hiệp định Paris mà Mỹ đã sơ thự ngày 23 và ký kết chính thức với CSBV ngày
27/1/1973, trong đó qui định nước Mỹ sẽ thay thế mọi quân cụ của QLVNCH trên
căn bản 1 đổi 1 để chúng ta có thể đối đầu với đế quốc CS. Các nhà lập pháp Mỹ
đó rõ ràng đã vấy rất nhiều máu của người dân và người lính miền Nam VN trên
tay họ mặc dù, một cách chính thức, chẳng ai có thể buộc tội họ được cả. Họ đã
khôn không kết ước gì với ta thì sau khi họ tháo chạy, hay triệt thoái, hay bỏ
rơi ta, coi việc VNCH lọt vào tay CS còn không làm họ xao xuyến hơn việc trường
đại học Arkansas thua trận bóng với trường Texas (phát biểu của William
Fulbright, Nghị Sĩ Mỹ của tiểu bang Arkansas, cựu Chủ Tịch Ủy Ban Ngoại Giao
Thượng Viện sau khi CS chiếm Saigon) thì ta lấy lý do gì để tố họ bội ước?. Họ
có "kết" bao giờ đâu mà "bội"??!!.
Chính khách người Hẹ ở
Đài Loan xem ra có viễn kiến hơn chúng ta nhiều. Nhưng thử hỏi các nhà lãnh đạo
VNCH -- cho dù có đọc rất kỹ các khuyến cáo của Tô Tần hoặc triệt để nghe theo
lời khuyên của ông Lý Đăng Huy -- thì liệu các TT Diệm và Thiệu của miền Nam VN
có thể vòi vĩnh cách nào để được ký một khi Mỹ nhứt định không ký? Vả lại chúng ta có cái thế gì để mà vòi? Vận
nước rõ ràng là nằm ngoài tầm quyết định của cấp lãnh đạo, lẫn người dân, miền
Nam VN cho dù có biện minh thế nào chăng nữa. Bởi thế mà ngay lúc nầy, chẳng có
mấy người ngạc nhiên khi việc chào cờ VNCH bị cấm trong một lễ tưởng niệm quốc
hận mà cộng đồng người tị nạn định tổ chức tại Camp Pendleton, một trong những
trại tiếp nhận người tị nạn hồi năm 1975 bởi vì chính sách của Mỹ là không cho
phép chào cờ của một nước mà Mỹ không nhìn nhận diễn ra bên trong các cơ sở
quân sự Mỹ. Thực tế quả tình là phũ phàng hơn bao giờ hết.
Nguyễn
Thiên Ân (April 15th 2015)
No comments:
Post a Comment