Wednesday, April 29, 2020

Quan hệ Mỹ-Trung: Lịch sử đã dẫn dắt như thế nào? - Mạnh Kim


Quan hệ Mỹ-Trung:  Lịch sử đã dẫn dắt như thế nào?
Mạnh Kim
Bài 1: Tại sao từ thù thành bạn? 

"SỰ KẾT THÚC TỒI TỆ CỦA QUAN HỆ MỸ-TRUNG"
THE UGLY END OF CHIMERICA

Sẽ là rất lịch sự nếu dùng những từ đại loại “đối tác” hay “đối thủ” mà không phải là kẻ thù để chỉ mối quan hệ hiện tại giữa Mỹ và Trung Quốc. Nếu xem Trung Quốc là kẻ thù, Mỹ đang đối mặt với một kẻ thù chưa từng có, một kẻ thù không hoàn toàn nằm ở chiến tuyến đối lập thật sự như với Liên Xô trước đây mà “bị” gắn kết bởi những lợi ích song phương gần như không thể tách rời. Những gì đang xảy ra là hệ quả của lịch sử, một hệ quả từ chính sách ngoại giao của những đời tổng thống trước…

Nhân vật cần phải nhắc lại: Kissinger!

Trung Quốc và Mỹ vốn chẳng bao giờ thật tâm với nhau. Chính kiến là một chuyện (tư bản và cộng sản). Tranh giành ảnh hưởng mới là vấn đề chính. Thời Chiến tranh lạnh, hai nước xem nhau như mặt trăng với mặt trời. Năm 1954, tại Hội nghị hòa đàm Geneva, Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles đã thẳng thừng từ chối bắt tay người đồng cấp Chu Ân Lai và thậm chí ra lệnh tất cả thành viên Mỹ phó hội Geneva phải “phớt lờ mọi lúc về sự có mặt và tồn tại của phái đoàn Trung Quốc”. Cùng với chính sách cô lập Trung Quốc về mặt ngoại giao, Mỹ cũng thiết lập một mạng lưới đồng minh và căn cứ quân sự ở Đông Nam Á.
Đến giữa thập niên 1950, Washington đã ký thỏa ước hợp tác quốc phòng với Úc và New Zealand (1951), Philippines (1951), Nam Hàn (1953); thắt chặt quan hệ với Đài Loan (1954) và cả cựu thù Nhật (1951). Mỹ còn thành lập nhiều tổ chức quân sự trong đó có Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) tại Tây Âu, Tổ chức hiệp ước Đông Nam Á (SEATO; Philippines, Thái Lan, Pakistan…), Tổ chức hiệp ước trung tâm (CENTO; Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Iraq, Pakistan…). Trước Thế chiến thứ hai, Philippines đã trở thành căn cứ vững mạnh của Mỹ ở Thái Bình Dương, nối với chuỗi đảo thuộc quản lý Mỹ (Guam, Wake, Midway)… Từ năm 1950, Washington cũng áp đặt lệnh cấm vận toàn diện đối với Trung Quốc…

Yếu tố Liên Xô

Có lẽ Trung Quốc chẳng bao giờ có cơ hội “ngóc đầu” lên nếu không xảy ra hai yếu tố thời cuộc, khiến chính sách Washington đối với Bắc Kinh thay đổi 180o. Thứ nhất, đó là sự đe dọa của Liên Xô, và thứ hai là cuộc chiến Việt Nam. Trong bối cảnh bế tắc của cuộc chiến Việt Nam và đồng thời cần một đối trọng để cân bằng quyền lực với Liên Xô, Mỹ bắt đầu chơi trò “mèo mả, gà đồng” với Trung Quốc. Đến đầu thập niên 1970, “bè lũ” Kissinger đã áp dụng một chính sách tiếp cận Trung Quốc hoàn toàn khác. Mục tiêu của Mỹ không còn làm suy yếu mà ngược lại phải làm cho Trung Quốc mạnh! Cụ thể nhất là việc hỗ trợ cho lực lượng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) bằng nhiều loại vũ khí hiện đại, đủ sức để Trung Quốc đương đầu nếu nước này xảy ra chiến tranh với Liên Xô.
Tuy nhiên, trong khi Tổng thống Richard Nixon (đảng Cộng hòa) và cố vấn an ninh quốc gia Kissinger muốn tăng tốc kế hoạch viện trợ quân sự cho Trung Quốc, Quốc hội Mỹ vẫn tỏ ý lo ngại và tìm cách ngăn chặn, với niềm tin rằng Bắc Kinh là một đối tác bất khả tín. Tuy nhiên, Nixon, rồi người kế nhiệm Gerald Ford (Cộng hòa), vẫn thuyết phục được Quốc hội, dù mức độ viện trợ không được như phác thảo ban đầu. Trong số thiết bị-phương tiện viện trợ cho Trung Quốc lúc đó, có hệ thống bắt tín hiệu truyền hình vệ tinh, 10 chiếc Boeing 707 và hai máy tính tốc độ cao. Đến năm 1975, Kissinger (lúc này là ngoại trưởng) còn kêu gọi xóa một số hạn chế xuất khẩu được áp dụng thời Chiến tranh lạnh, trong đó có việc bán động cơ phản lực Rolls-Royce (Anh sản xuất) cho Trung Quốc. Song song, Mỹ và Trung Quốc cũng thiết lập các chương trình tập trận, huấn luyện quân sự và thậm chí soạn thảo kịch bản tác chiến (đánh Liên Xô)…
Dù vậy, Mỹ rất cân nhắc chính sách viện trợ quân sự cho Trung Quốc, phần vì bản chất của “cuộc tình” Washington-Bắc Kinh thực chất chỉ là mối tình tạm bợ, vì “cưỡng hôn” mà có, vì thời cuộc xoay vần mà ra. Phần nữa, Mỹ không dám ào ạt viện trợ quân sự cho Trung Quốc bởi lo ngại Liên Xô có khả năng phản ứng mạnh và chơi đòn phủ đầu bằng cách bất ngờ tấn công Trung Quốc, dẫn đến nguy cơ một cuộc đại chiến thế giới lần ba. Trong thực tế, đã có vài tín hiệu cho thấy Liên Xô sẵn sàng dập Trung Quốc, không phải đánh bằng một chiến dịch quân sự thông thường mà là đập cho nát ngướu! Hè 1969, khi xung đột biên giới Trung Quốc và Liên Xô căng thẳng, tại một bữa ăn trưa ở nhà hàng “Beef and Bird” ở trung tâm Washington, một viên chức ngoại giao cấp trung Liên Xô đã nói với người đồng cấp Mỹ rằng Moscow đã lên kế hoạch “cực kỳ nghiêm túc” việc tấn công phủ đầu vào các cơ sở hạt nhân Trung Quốc.

Sự kiện Afghanistan

Vài tuần sau tại Teheran, một tùy viên không quân Liên Xô cũng nói với một sĩ quan Mỹ rằng Liên Xô “sẽ không ngần ngại dùng vũ khí hạt nhân để tiêu diệt Trung Quốc” nếu Trung Quốc tiếp tục quấy rối biên giới Liên Xô. Năm 1973, một lần nữa, Liên Xô lại đề cập khả năng tấn công các cơ sở hạt nhân Trung Quốc. Phản ứng, Kissinger – trong chuyến kinh lý Bắc Kinh cuối năm 1973 – nói với Chu Ân Lai rằng trong trường hợp Moscow tuyên chiến với “người anh em” Trung Quốc, Mỹ “có thể giúp đỡ bằng cách hỗ trợ thiết bị và các dịch vụ khác” (nhưng không nêu cụ thể là những gì), đồng thời giúp Trung Quốc giảm thiểu khả năng thiệt hại bằng cách cung cấp thông tin tình báo cảnh báo sớm. Điều này chỉ có thể thực hiện một khi thiết lập đường dây nóng “giữa các vệ tinh của chúng ta để chúng tôi có thể thông báo cho các bạn chỉ trong vài phút”…
Giữa thập niên 1970, Mỹ bắt đầu giảm bớt liều lượng nhiệt tình trong quan hệ với Trung Quốc. Cuộc chiến Việt Nam đã ngã ngũ và mối đe dọa hạt nhân Liên Xô cũng không còn. Hơn nữa, quan điểm nổi trội trong chính trường Mỹ vẫn là sự áp đảo của phe chính trị truyền thống với chính sách không thân thiện với một nước cộng sản như Trung Quốc. Phần mình, Bắc Kinh cũng chẳng thấy vui gì khi Washington thắt chặt bang giao với mình; một mặt, vẫn “đi đêm đi hôm” và thậm chí công khai bênh vực Đài Loan. Trong thực tế, cả Bắc Kinh lẫn Washington đều nhìn thấy rõ bản chất của mối quan hệ: Trung Quốc cần dựa hơi Mỹ để chống Liên Xô, trong khi Washington cần vuốt ve Trung Quốc để lấy nó làm đối trọng trong những cuộc mặc cả chính trị với Moscow.
Tuy nhiên, tháng 12-1979, khi quân đội Liên Xô tấn công Afghanistan, quan hệ chiến lược Washington-Bắc Kinh lại được đẩy lên một “tầm cao” mới. Trong chuyến công du Bắc Kinh tháng 1-1980, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Harold Brown đề xuất loạt trao đổi giữa các viên chức quốc phòng cấp cao hai nước, ở một mức độ “chưa từng có trước nay”. Tổng thống Jimmy Carter (Dân chủ) tuyên bố ông sẽ chuẩn y các giấy phép xuất khẩu cho những mặt hàng liên quan kỹ thuật kép (dùng cho dân sự lẫn quân sự), và lần đầu tiên cũng chuẩn y phi vụ bán các hệ thống quân sự không giết người, như radar, vận tải cơ, trực thăng và phần cứng viễn thông. Tuy nhiên, Carter vẫn còn đủ tỉnh táo và thận trọng không đồng ý bán vũ khí tấn công, bất chấp sự bày tỏ quan tâm từ Bắc Kinh… Chính sách thân thiện của Washington đối với Bắc Kinh, dù ẩn sâu bên trong vẫn tồn tại nhiều nghi kỵ và dè chừng, đã khiến dư luận Mỹ thời điểm đó bớt nhìn Trung Quốc bằng cặp mắt tiêu cực. Trong suốt thập niên 1970, chỉ khoảng 1/3 người được hỏi trong các cuộc thăm dò tại Mỹ là bày tỏ cái nhìn tích cực dành cho Trung Quốc trong khi 2/3 hoặc hơn nói chung tỏ ra nghi ngại Trung Quốc. Đến thập niên 1980, những kết quả thăm dò bắt đầu cho thấy ngược lại. Trong cuộc thăm dò tháng 2-1989, tỉ lệ người Mỹ “khoái” Trung Quốc đã lên đến 73%!

Bài 2: Thế cuộc xoay vần, làm sao trở bộ?

Lịch sử chính trị thế giới cho thấy có khi, chỉ bởi vài quan điểm cá nhân, thế cục đã có thể thay đổi. Trong trường hợp Trung Quốc và Mỹ, đó là những bộ não như Henry Kissinger và sau đó là “học trò” của ông – Ngoại trưởng Alexander Haig.

Một “bước tiến” quá xa

Trong Nội các Ronald Reagan (thuộc đảng Cộng hòa; kế nhiệm Jimmy Carter), Alexander Haig được xem là nhân vật luôn ủng hộ mạnh mẽ chính sách thân Bắc Kinh. Haig muốn đặt dấu ấn riêng trên trang sử quan hệ Mỹ-Trung bằng việc thực hiện những bước đột phá để nâng quan hệ hai nước lên một cấp độ chiến lược mới, mà trọng tâm của nó là tăng tốc việc bán vũ khí giết người cho Trung Quốc, về chất lẫn lượng. Haig tin rằng, chỉ khi như vậy, Mỹ mới có thể cân bằng được sức mạnh quân sự Liên Xô.
Ngoại trưởng Alexander Haig và người đồng cấp Hoàng Hoa tại Bắc Kinh tháng 6-1981 (International Magazine Services photo archive)
Quan điểm của Haig cũng được chia sẻ bởi một số người trong bộ máy quân đội Mỹ. Bản nghiên cứu về mối quan hệ an ninh chiến lược với Trung Quốc năm 1981 của Bộ tổng tham mưu quân đội Hoa Kỳ kết luận rằng, Trung Quốc “đang đóng góp đáng kể” cho “sự cân bằng toàn cầu”. Tuy nhiên, một lần nữa, Quốc hội và một số tướng lĩnh Lầu năm góc vẫn dè dặt việc mở rộng cửa và cung cấp Trung Quốc những kỹ thuật quân sự tiên tiến. Với Haig, đó là những ý kiến “thiển cận”, xuất phát từ hạng người có “tư duy bàn giấy” và “đầu óc hẹp hòi”…
Sự vận động liên tục của Haig cuối cùng cũng có kết quả, dù khiêm tốn. Năm 1983, Bộ trưởng quốc phòng Caspar Weinberger tuyên bố, trong số những bước đi mới được thiết kế nhằm tăng cường quan hệ quân sự song phương Mỹ-Trung, Washington sẽ sẵn lòng bán những hệ thống “vũ khí phòng ngự” cho Bắc Kinh. Và trong nửa sau thập niên 1980, Washington cũng đồng ý bán cho Trung Quốc ngư lôi, radar chiến thuật, thiết bị máy móc để sản xuất vỏ đại bác và hệ thống điện tử cho thiết bị đánh chặn của chiến đấu cơ. Giới chức Mỹ thậm chí còn bày tỏ việc sẵn lòng thảo luận việc bán hệ thống tên lửa chống tăng, hệ thống dò âm chống tàu ngầm, động cơ turbine khí cho tàu chiến và hệ thống tên lửa không đối không.
Tóm lại, Washington đã chuẩn bị bán một số mặt hàng quân sự với số lượng lớn cho Trung Quốc. Sau chuyến công du Trung Quốc của Weinberger năm 1983, loạt trao đổi qua lại giữa giới chức dân sự lẫn quân sự ở mọi cấp bậc của hai nước liên tục diễn ra. Không chỉ dự tính tổ chức các cuộc phối hợp tập trận hải quân giữa hai quân đội, Mỹ còn háo hức đề xuất ý kiến triển khai máy bay chiến thuật đến những căn cứ gần Vladovostok; phát triển “những hệ thống phòng không và cảnh báo sớm”, xin được phép tiếp liệu cho vận tải cơ Mỹ mang hàng hóa cung cấp cho lực lượng “kháng chiến quân” Afghanistan trong cuộc chiến chống Liên Xô…

“Tính lại” như thế nào?

Tuy nhiên, thời cuộc lại thay đổi và ảnh hưởng của nó là sự tái nhận thức về các mối quan hệ. Giữa thập niên 1980, Liên Xô đang lún sâu vào hỗn loạn nội bộ, trong làn sóng cải tổ của Mikhail Gorbachev. Nhận định rằng Moscow không còn là kẻ thù và là mối đe dọa an ninh lớn đối với mình, Bắc Kinh bắt đầu muốn cải thiện quan hệ với Moscow để tận dụng quan hệ quân sự lẫn kinh tế. Dù sao, hai nước cũng từng có những mối liên hệ chặt chẽ thời thập niên 1950. Việc tái nhận thức trong chiến lược quan hệ với Liên Xô khiến Bắc Kinh “tế nhị” đẩy quan hệ với Mỹ xuống một… tầm thấp hơn. Thế là thay vì hăm hở sắm “đồ chơi” Mỹ, Trung Quốc đã bỏ qua (cơ hội ngàn vàng này) và chỉ mua vài thứ tượng trưng. Những kế hoạch hợp tác quân sự song phương như nói ở trên cũng bị bỏ xó…
Năm 1989 đã xảy ra hai sự kiện kinh thiên động địa khiến Mỹ bắt đầu giảm dần, dù rất chậm, mối quan hệ với Trung Quốc. Thứ nhất đó là sự kiện Thiên An Môn vào tháng 6 và tiếp đó là sự kiện bức tường Berlin sụp đổ vào tháng 11. Cả hai sự kiện đều mang lại những ảnh hưởng sâu sắc đối với chính sách đối ngoại của Mỹ lẫn Trung Quốc. Với Mỹ, sự tan rã khối cộng sản Đông Âu khiến điểm tựa Liên Xô không còn đã dẫn Washington đến những phác thảo mới cho chủ trương đối ngoại. Có một điều đến nay không thể giải thích là tại sao dù chiến lược cân bằng với Liên Xô không còn cần thiết nhưng Washington, bất chấp sự kiện kinh hoàng Thiên An Môn, vẫn duy trì quan hệ khá gần gũi với Trung Quốc.
Vài tháng sau vụ Thiên An Môn, thứ trưởng ngoại giao Mỹ Lawrence Eagleburger đệ trình Quốc hội một danh sách những phạm vi “sống còn” mà Mỹ cần tiếp tục thực hiện trong mối quan hệ với Bắc Kinh. Eagleburger giải trình rằng, dù Liên Xô sụp đổ, nhưng những “giá trị chiến lược” với Bắc Kinh vẫn không thể vì thế mà từ bỏ. Do đó, Bắc Kinh và Washington cần tiếp tục chia sẻ nhiều mối quan tâm mới, qua những chương trình hợp tác mới, trong bối cảnh chính trị mới. Theo quan điểm Eagleburger cũng như một số giới chức hoạch định chính sách đối ngoại Hoa Kỳ, Washington bây giờ cần hỗ trợ để đưa Trung Quốc tiếp cận và gắn kết sâu hơn vào các hệ thống định chế quốc tế. Một cách tinh vi, đó là cách thuần hóa một con cọp đang mọc nanh.

Washington từng nghĩ Trung Quốc chỉ mải lo làm giàu, thế thôi!

Chính sách này xuất hiện ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ Bill Clinton (Dân chủ). Năm 1994, Chính phủ Mỹ tuyên bố Washington sẽ theo đuổi chính sách “hợp tác toàn diện” với Trung Quốc – như Tổng thống Bill Clinton đã trình bày: “Chúng tôi sẽ có nhiều mối liên hệ hơn.. Chúng tôi sẽ giao thương nhiều hơn. Chúng tôi sẽ hợp tác quốc tế nhiều hơn”. Nói cách khác, Mỹ đã phát quang dọn đường đưa Trung Quốc lên vũ đài quốc tế, với hy vọng rằng, Trung Quốc sẽ có ý thức trách nhiệm hơn với những nghị sự thế giới và những vấn đề toàn cầu (chẳng hạn ô nhiễm môi trường), cũng như sẽ hành xử biết điều, biết luật hơn, với những xung đột khu vực…
Mỹ đã tạo ra một ảo tưởng cho Trung Quốc rằng họ bây giờ là một cường quốc. Đặt Trung Quốc lên chiếc ghế định chế quốc tế không chỉ buộc Trung Quốc phải “ăn ở” cho ra “tư cách người lớn” mà cũng là một cách để có thể giám sát và thậm chí khống chế Trung Quốc. Đó là lý do tại sao Mỹ dành cả nửa sau của thập niên 1990 để vận động đưa Trung Quốc vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO)… Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2000, George W. Bush (Cộng hòa) chỉ trích nội các tiền nhiệm đã “dung túng” và “nuông chiều” Trung Quốc thái quá. Với Bush, Trung Quốc không thể là “đối tác chiến lược” mà phải là “đối thủ chiến lược”.. Dù vậy, thế cờ đã được bày, trong một thời gian dài như vậy, làm sao có thể gỡ một sớm một chiều? Cuối cùng, dưới áp lực của giới doanh nghiệp và tài phiệt Mỹ, Bush cũng buộc phải áp dụng chính sách đối với Trung Quốc chẳng khác thời Bill Clinton bao nhiêu…
Tuy nhiên, trong lĩnh vực quân sự, những gì được thiết lập trước năm 1989 đã không bao giờ được tái lập. Mỹ bắt đầu nhận ra rằng, Trung Quốc đang từng bước trở thành một mối họa đối với an ninh và quyền lợi Mỹ. Sự nhận thức này diễn ra rất chậm. Trước năm 1996, giới chức quân sự Mỹ vẫn còn chưa quan tâm sự phát triển quân sự Trung Quốc. Họ chỉ nghĩ Trung Quốc đang mải mê lo làm giàu, thế thôi. Trong khi đó, một sự nhận chân toàn bộ về thực trạng quân sự non kém của mình lại đang sôi sùng sục tại Trung Quốc, từ khi họ chứng kiến sức mạnh kinh khủng của Mỹ phô diễn ở cuộc chiến vùng Vịnh 1991. Trung Quốc bắt đầu âm thầm tăng tốc đầu tư quân sự, trước sự thờ ơ của Mỹ.
Tất cả chỉ thay đổi vào năm 1996, khi Đài Loan tổ chức cuộc bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên. Trung Quốc đã gây sức ép Đài Bắc bằng cách triển khai dàn tên lửa chĩa thẳng về Đài Loan. Lần đầu tiên trong hơn 30 năm, Mỹ mới nhận ra một hiểm họa chiến tranh thật sự tại châu Á, đến từ Trung Quốc. Lập tức sau đó, tình báo Mỹ bắt đầu theo dõi hoạt động quân sự Trung Quốc. Kết quả thật đáng lo ngại, nếu không nói là đầy tính cảnh báo. Hóa ra quân đội Trung Quốc đã mạnh hơn Mỹ nghĩ rất nhiều, dù sức mạnh này còn kém Mỹ rất xa. Trước sự kiện 1996, CIA gần như chẳng đếm xỉa đến Trung Quốc.
Trong báo cáo các mối đe dọa toàn cầu vào tháng 2-1996, Giám đốc CIA John Deutch trình bày ngắn gọn: “Chúng ta vẫn biết rất ít về giới lãnh đạo tương lai Trung Quốc cũng như kế hoạch của họ”. Một năm sau, sau vụ khủng hoảng Đài Loan, người kế nhiệm Deutch, George Tenet, bắt đầu “la thất thanh”: “Những hành động và tuyên bố của Trung Quốc cho thấy họ quyết tâm thể hiện mình như một sức mạnh đỉnh cao ở Đông Á”. Đến năm 1998, Tenet tin chắc rằng, giới lãnh đạo Trung Quốc “có một mục tiêu rõ ràng: biến nước họ thành một sức mạnh chủ yếu ở Đông Á cũng như là cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới ngang hàng Mỹ vào giữa thế kỷ 21”.

Bài 3: Điều chỉnh và tái cân bằng

Với Mỹ, từ thời George W. Bush đến Barack Obama, chính sách ngoại giao có thể tổng hợp gồm ba phần. Với Trung Quốc, họ cũng xây dựng chiến lược mới. Cách chọn lựa những gì cần làm và cách dứt khoát như thế nào những gì cần loại bỏ trong các đề mục của đối sách đối ngoại ở bối cảnh mới của mối quan hệ sẽ là những yếu tố quyết định thành bại, nếu không muốn nói là mang tính sinh tử đối với cả hai…

Duy trì cân bằng

Với thế đang lên của Trung Quốc, cùng sự gắn kết móc xích kinh tế giữa Mỹ và nước này, Washington (thời George W. Bush và Barack Obama) hiểu rằng sẽ là hạ sách nếu cố kiềm tỏa Bắc Kinh bằng chính sách cô lập triệt để như từng dùng thời Chiến tranh lạnh với Liên Xô và Đông Âu. Phương án được chọn của Mỹ là tìm cách cân bằng.
Thứ nhất, đó là triển khai mạnh sự hiện diện quân sự tại Thái Bình Dương. Đấu pháp này thật ra không phải bắt đầu sau khi Barack Obama ngồi ghế tổng thống (năm 2009) mà đã hình thành từ thời Bill Clinton, khi Clinton – tiên liệu được sức mạnh mang tính đe dọa quyền lợi Mỹ của Trung Quốc tại đấu trường châu Á – đã quyết định duy trì một lực lượng ổn định với tối thiểu 100.000 quân tại châu Á-Thái Bình Dương. Sau Clinton, sang thời George W. Bush, trái với nhiều nhận định rằng Bush đã bỏ lỏng châu Á cho Trung Quốc khi dồn lực vào cuộc chiến chống khủng bố, chính nội các Bush mới là nơi khai sinh khái niệm “tái phối trí”, khi Bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld triển khai mạnh chương trình tái phối trí lực lượng quân sự Mỹ khắp toàn cầu với sự tăng cường hiện diện tại châu Á. Quân đội Mỹ được phân bổ dàn rộng hơn (không tập trung ở những căn cứ truyền thống như Okinawa và Hàn Quốc), với yếu tố tác chiến cơ động được đề cao – như lời đô đốc William J. Fallon giải thích: “Chúng tôi đưa lực lượng mình đến những nơi mà chúng tôi nghĩ có thể sử dụng mà không cần phải xin phép bất kỳ ai”.
Trước khi Bush rời Nhà trắng, hải quân lẫn không quân Mỹ đều đã tăng cường những đơn vị tinh nhuệ có khả năng chiến đấu cao nhất đến Thái Bình Dương. Năm 2007, lần đầu tiên kể từ sau Chiến tranh lạnh, hơn ½ tàu chiến của Mỹ đã được điều động đến Thái Bình Dương, trong đó có 6 (trong tổng số 11) hàng không mẫu hạm; gần như tất cả 18 chiếc khu trục hạm lớp Aegis (có khả năng bắn chặn tên lửa); 26 (trong tổng số 57) tàu ngầm tấn công… Năm 2007, tư lệnh trưởng Bộ tư lệnh Thái Bình Dương, Đô đốc Timothy Keating, nói: “Chúng tôi phải duy trì khả năng vượt trội tại bất kỳ hoàn cảnh nào và bất kỳ môi trường nào. Không có ngoại lệ”.
Thứ hai, đó là việc tăng cường liên kết đồng minh. Một lần nữa, điều này cũng được dàn dựng vào thời Clinton và tiếp tục duy trì thời Bush. Năm 1997 rồi lần nữa vào năm 2005, giới chức Mỹ-Nhật đã thảo luận sâu về vấn đề hợp tác quốc phòng cũng như tìm cách tháo gỡ rào cản pháp lý liên quan việc mở rộng quân đội Nhật (vốn bị hạn chế bởi Hiến pháp Nhật được soạn sau Thế chiến thứ hai). Để tránh bị qui kết can thiệp nội bộ Tokyo, Nội các Bush đã ngầm ủng hộ nhóm chính trị gia Nhật kêu gọi sửa đổi Hiến pháp. Ngoài Nhật, Washington cũng mở rộng liên kết hợp tác quân sự với Úc và một số nước trong đó có Philippines, Singapore và Thái Lan…
Thứ ba, đó là sự hạn chế đà phát triển của quân đội Trung Quốc. Đây là bài toán thật sự hóc búa đối với Mỹ. Làm thế nào để tăng cường xuất khẩu Mỹ (sang Trung Quốc) mà không làm ảnh hưởng an ninh quốc gia? Mặt hàng nào nên được xếp vào nhóm “nhạy cảm”? Sau sự kiện Thiên An Môn, Tổng thống George H. Bush (Bush-bố) đã áp đặt lệnh cấm vận toàn diện đối với các thương vụ vũ khí sát thương dành cho Trung Quốc; đồng thời thuyết phục các nước đồng minh áp dụng tương tự.
Năm 1991 và một lần nữa vào năm 1993, Bush-bố rồi Clinton đã chặn đứng việc xuất khẩu vệ tinh cho Trung Quốc. Tuy nhiên, khi miếng bánh thị trường Trung Quốc đang bị mất dần vào tay Nhật và châu Âu, giới doanh nghiệp Mỹ liên tục vận động hậu trường để được Washington cho “xả cảng”. Vậy là, trong suốt thập niên 1990, dù ngày càng có nhiều ý kiến bày tỏ quan ngại sự bành trướng quân đội Trung Quốc, Bộ thương mại Hoa Kỳ vẫn phải chuẩn y hàng trăm giấy phép bán những kỹ thuật kép cho Trung Quốc trong đó có bán dẫn, máy móc chính xác cao và những thiết bị kiểm định đặc biệt. Những mặt hàng này, như sau này được biết, đã chạy thẳng đến các nhà máy và phòng thí nghiệm quân sự Trung Quốc, để từ đó tạo ra những radar quân sự, tên lửa hành trình và vũ khí hạt nhân…
Tuy vậy, về tổng thể, Clinton lẫn Bush-con đều cố kiểm soát tình hình bất kỳ khi nào có thể.. Năm 2004, một cuộc tranh luận về việc tháo bỏ lệnh cấm vận vũ khí cho Trung Quốc một lần nữa lại bùng lên tại châu Âu. Với chính giới châu Âu, lệnh cấm vận 15 năm dành cho Trung Quốc đã làm thiệt hại đáng kể ngành công nghiệp quốc phòng và không gian của họ. Đã đến lúc phải gạt bỏ tư tưởng hoài nghi dành cho Bắc Kinh – châu Âu đề nghị. Suýt chút nữa thì chiến dịch vận động xóa cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc của châu Âu đã thành công, nếu nội các Tổng thống Bush-con không quyết liệt can thiệp vào giờ chót. Trong khi đó, Mỹ tăng cường xuất cảng vũ khí, đặc biệt thời Obama, khi Mỹ vận hành chính sách “xoay trục”. Năm 2011, Loren Thompson, nhà tư vấn quốc phòng kỳ cựu, từng nói rằng Obama có khuynh hướng ủng hộ xuất khẩu vũ khí “hơn bất kỳ Nội các Dân chủ nào trước đó”.
Mỹ tiếp tục duy trì quan hệ chiến lược với Đài Loan (Reuters)

Trung Quốc làm gì?

Mục tiêu lớn nhất của Trung Quốc là phải trục Mỹ khỏi sân chơi Đông Nam Á, một cách gián tiếp, không đối đầu trực diện; bằng những “thủ pháp” sau:
Thứ nhất, phải tìm cách trì hoãn hoặc thậm chí loại bỏ bất kỳ phản ứng có thể nào của Mỹ, đối với chiến thuật tăng cường hiện diện thông qua hợp tác mà Mỹ đang áp dụng. Thứ hai, Trung Quốc phải lập ra những thể chế chính trị khu vực được thiết kế sao cho Mỹ không thể tham gia. Thứ ba, ổn định những vùng đệm an toàn tại khu vực; sao cho, thứ tư, Trung Quốc có thể tập trung hơn vào chiến lược thống trị biển Đông trong khuôn khổ chủ thuyết “đường lưỡi bò”.
Dựa theo bài bản xây dựng đồng minh của Mỹ tại châu Á, Trung Quốc cũng có những dự án xây dựng thể chế để gắn kết đồng minh riêng, trong đó có Tổ chức hợp tác Thượng Hải hay cơ chế “cộng ba” đối với khối ASEAN. Với Trung Á, Trung Quốc đã không bỏ lỡ thời cơ tìm kiếm những cơ hội nảy sinh khi khối Liên Xô tan rã. Và bằng cách tạo ra mô hình “đối tác chiến lược” với các nước láng giềng, trong khuôn khổ chính sách “biên giới mềm” – như cách nói của nhà báo Ross Munro, Trung Quốc không chỉ tăng cường ảnh hưởng mà còn hạn chế những rủi ro đe dọa trong tương lai.
Để thực hiện chiến lược “biên giới mềm” nhằm tăng cường ảnh hưởng khu vực ngoại vi, theo Munro, Trung Quốc đã áp dụng nhiều thủ đoạn trong đó có hối lộ giới chức quốc gia sở tại, tuyển dụng giới doanh nghiệp và viên chức địa phương để cung cấp thông tin cho Trung Quốc (những thông tin này khi được tình báo Trung Quốc sàng lọc sẽ giúp Bắc Kinh có cái nhìn rõ hơn về tình hình chính trị quốc gia sở tại), áp dụng thủ thuật chèn ép tinh vi trong đàm phán biên giới để buộc các nước láng giềng yếu hơn không chỉ nhường đất mà còn phân tán lực lượng biên phòng của họ, và cuối cùng, là âm thầm tổ chức các cuộc di dân từ Trung Quốc sang quốc gia ngoại vi…
***
Để kết thúc chuỗi lịch sử từ thời Nixon đến cuối thời Obama, có lẽ cần nhắc lại một nhân vật: Henry Kissinger – kẻ được mệnh danh “ông ngoại của chính sách đối ngoại (“granddaddy of U.S. foreign policy”), người vẫn dùng ảnh hưởng của mình để xây dựng một “viễn kiến” về “trật tự thế giới mới” trong đó Mỹ phải nên chia sẻ quyền lực với Trung Quốc.
Cần nhắc lại, cuối năm 2016, khi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ kết thúc với chiến thắng thuộc về Donald Trump, Kissinger đã mò sang Bắc Kinh. Ngày 1-12, Kissinger gặp nhân vật chính trị cấp cao Vương Kỳ Sơn (hiện ngồi ghế Phó Chủ tịch Trung Quốc). Ngày 2-12, báo chí Trung Quốc đăng ảnh Kissinger gặp Tập Cận Bình. Hôm đó, Kissinger nói với Tập: “Chúng tôi hy vọng chứng kiến quan hệ Mỹ-Trung đi lên với cách thức ổn định và liên tục”. Và trong cuộc phỏng vấn (đăng trên nguyệt san The Atlantic 12-2016), khi được nhà báo Jeffrey Goldberg hỏi rằng ông có lo sợ không, nếu “tất cả những chuyện này, xuất phát từ Trump, dẫn đến một cuộc chiến thương mại với Trung Quốc”; Kissinger trả lời: “Hơn bất kỳ gì khác, một trật tự thế giới hòa bình và cân bằng luôn dựa vào mối quan hệ ổn định giữa Mỹ với Trung Quốc. Tập Cận Bình miêu tả sự liên tương kinh tế là sự “cân bằng và thúc đẩy” cho quan hệ song phương rộng hơn của chúng ta. Một cuộc chiến mậu dịch sẽ tàn phá cả hai nước”.
Lập luận này tiếp tục được lặp lại trong cuộc họp mà Kissinger chủ trì tại New York trung tuần tháng 12-2016. Gần đây nhất, giữa cơn khủng hoảng dịch bệnh, khi viết trên Wall Street Journal (3-4-2020), Kissinger vẫn còn bóng gió về cái gọi là sự chuyển dịch đến một trật tự hậu đại dịch (the transition to the post-coronavirus order).


No comments:

Post a Comment