Chiều Đông
(Kính tiễn Giác Linh
Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ)
Trần Trung Đạo
Một ngày tháng 8 năm
1992, tôi nhận được một bài thơ của một người bạn tin cẩn gởi từ trong nước.
Anh chép tám câu thơ của Hòa Thượng Thích Quảng Độ nhưng không có tựa.
Tôi đọc và rất cảm
động. Qua từng câu thơ tôi hình dung cảnh cô đơn, trống vắng, quạnh hiu mà Thầy
đang sống trong thời gian lưu đày ở Thái Bình trong một buổi chiều đông.
Sau 1975, giữa lúc gần
hết mọi người đều đi theo chiều gió, Thầy cố bước ngược chiều để mong cứu vớt
những gì còn sót lại sau những điêu tàn, đổ nát. Tinh thần vô úy của đạo Phật
đã giúp Thầy vượt qua bao thử thách, cực hình, đày đọa.
Trong đêm tối giữa nhà
lao Phan Đăng Lưu hay trong buổi chiều mưa tầm tã tay dắt bà mẹ già 90 tuổi
trên đường lưu đày từ Sài Gòn ra huyện Vũ Đoài, Thái Bình, Thầy vẫn một tấm
lòng son sắt với quê hương và đạo pháp.
Chúng ta sống trên đất
tự do, dễ dàng nói với nhau về yêu nước, yêu đạo, dễ dàng nói với nhau về hy
sinh, đại nguyện. Nhưng nếu chúng ta sống một đêm, một đêm thôi, trong đau thương
trăn trở giữa ngục tối Hàm Tân như HT Thiện Minh, một đêm mang nặng ưu tư đau
nhức tại nhà tù Phan Đăng Lưu như HT Quảng Độ, một đêm trầm mặc suy tư trên mỗi
bước thiền hành ở Quảng Ngãi như HT Huyền Quang, chắc chắn chúng ta sẽ hiểu ra
rằng Bồ Tát giống tất cả chúng ta nhưng chúng ta không phải dễ dàng là Bồ Tát.
Ngày đó không có mạng
xã hội Facebook như bây giờ. Chúng tôi là một nhóm vài trăm người sinh hoạt với
nhau trong giai đoạn Internet còn rất phôi thai.
Tôi gởi bài thơ cho cả
nhóm đọc. Nhưng bài thơ thì phải có tựa. Tôi không nói với ai, chỉ im lặng và
mạo muội đặt tựa là Chiều Đông, phía dưới viết tên tác giả HT Thích Quảng Độ.
Luôn dịp tôi họa lại bài thơ của Thầy đặt tựa Tấc Lòng Son, và sau đó in trong
tập Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười xuất bản lần đầu tại San Jose cuối năm 1992.
Trước ngày Thầy bị bắt
và tôi chưa rời Việt Nam, mỗi tuần tôi thường gặp Hòa Thượng đi bộ từ chùa Giác
Minh trên đường Lý Thái Tổ xuống ngã sáu Trần Quốc Toản, để từ đó đón xe Lam
qua Thanh Minh Thiền Viện giảng thiền học. Dáng Thầy thanh cao, vầng tráng
rộng, miệng Thầy luôn mỉm cười như chúng tôi thường bắt gặp trong những ngày
trước 30-4-1975 ở Đại Học Vạn Hạnh. Phải chăng ngay cả trong lúc mang nặng ưu
tư về tiền đồ dân tộc và đạo pháp, tâm Hòa Thượng Quảng Độ vẫn an nhiên, tự
tại.
Thầy dạy Triết Đông và
tư tưởng Phật Giáo cho sinh viên các khoa Khoa Học Nhân Văn và Phật Học. Tôi
không trực tiếp được học Thầy. Nhưng những buổi giảng chuyên đề của các thầy
thường mở rộng cho sinh viên các ban khác. Ngày đó tôi còn nhỏ nhưng may mắn
được nhiều lần ngồi nghe các thầy dạy bảo. Hòa thượng Quảng Độ, Hòa thượng Minh
Châu, Hòa thượng Mãn Giác, Hòa thượng Thuyền Ấn v.v.. Mỗi thầy một nét. Cao
siêu nhưng gần gũi. Giản dị nhưng thâm trầm.
Những hạt giống nhân
duyên các thầy gieo xuống tâm hồn tôi nay đã lớn lên. Kỷ niệm không bao giờ
chết. Kỷ niệm lớn như cây. Nếu biết chăm sóc, kỷ niệm cũng nở hoa như những
loài hoa tươi đẹp khác.
Ba mươi tháng Tư,
1975, chúng tôi như bầy chim bay tán loạn bốn phương trời. Dù phải sải cánh bao
xa, chúng tôi đều mang theo trong tâm hồn mình những bóng mát của một thời tuổi
trẻ. Thời của tuổi mười tám với buồng phổi căng đầy sức sống. Bóng mát đó là
các thầy. Bóng mát đó là thiền viện, thư viện, giảng đường, và bóng mát đó là
lý tưởng Duy Tuệ Thị Nghiệp.
Hành trình đầy bi
tráng của Thầy trong suốt 10 năm bị bắt giam, tra tấn và lưu đày cùng với bà mẹ
già 90 tuổi ở Thái Bình đã để lại một niềm thương yêu và kính phục sâu xa,
không những trong lòng nhiều triệu Phật Giáo đồ Việt Nam, dân tộc Việt Nam mà
cả trong cộng đồng nhân loại.
Bài thơ của Thầy:
CHIỀU ĐÔNG
CHIỀU ĐÔNG
Nghe lòng xa vắng những chiều
đông
Nhìn nước mênh mông khắp mặt đồng
Bát ngát núi xa mờ bóng cọp
Thăm thẳm trời cao bặt cánh hồng
Bao độ cà tan cà nở nụ
Mấy mùa lúa rụng lúa đơm bông
Năm tháng mỏi mòn đầu đã bạc
Còn chút lòng son gởi núi sông
(HT Thích Quảng Độ, Thơ Tù HT Thích Quảng Độ, trang 265)
Nhìn nước mênh mông khắp mặt đồng
Bát ngát núi xa mờ bóng cọp
Thăm thẳm trời cao bặt cánh hồng
Bao độ cà tan cà nở nụ
Mấy mùa lúa rụng lúa đơm bông
Năm tháng mỏi mòn đầu đã bạc
Còn chút lòng son gởi núi sông
(HT Thích Quảng Độ, Thơ Tù HT Thích Quảng Độ, trang 265)
TẤC LÒNG SON
Lời thầy vang vọng giữa chiều
đông
Hương ngát vô ưu rót tận lòng
Mây nước muôn trùng tan với hợp
Quê hương ngàn dặm có mà không
Tóc xưa dẫu bạc lòng không đổi
Áo cũ dù phai giữ đạo đồng
Mười năm trải một lòng son sắt
Tiếng vọng ngàn thu với núi sông.
(Trần Trung Đạo, Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, trang 126)
Hương ngát vô ưu rót tận lòng
Mây nước muôn trùng tan với hợp
Quê hương ngàn dặm có mà không
Tóc xưa dẫu bạc lòng không đổi
Áo cũ dù phai giữ đạo đồng
Mười năm trải một lòng son sắt
Tiếng vọng ngàn thu với núi sông.
(Trần Trung Đạo, Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, trang 126)
Cách đây vài năm, khi
nhận được thi tuyển Thơ Tù của HT Thích Quảng Độ lần đầu, tôi hồi hộp đọc phần
mục lục trước để xem Thầy đặt tựa bài thơ là gì.
Tôi rất vui và cảm
động khi biết Thầy cũng đặt tựa bài thơ là Chiều Đông. Tôi thầm cám ơn Thầy đã
cho phép tôi được sống trong cùng một tâm cảm với Thầy.
Thầy là rừng, tôi chỉ
là chiếc lá nhưng nhờ có nhân duyên lá và rừng được sống với nhau trong một
chiều đông.
Sáng hôm qua, trong
lúc đang đi bộ trên đường nhỏ trong xóm tôi nhận một tin nhắn của một Phật tử
tin cẩn từ trong nước “Hòa thượng Quảng Độ vừa viên tịch”. Tôi lặng người.
Không phải vì Thầy ra đi sớm nhưng vì Thầy ra đi.
Đại Lão Hòa thượng
Thích Quảng Độ viên tịch chấm dứt một chương dày 45 năm trong lịch sử đầy thăng
trầm của Phật Giáo Việt Nam. Những chương mới sẽ mở ra nhưng sẽ khác hơn nhiều.
Trong tất cả tôn đức
chịu đựng tù đày, Thầy là vị đã sống trong tù lâu nhất. Từ tháng 6, 1977 cho
đến khi viên tịch, Thầy vẫn là một tù nhân của chế độ CS tại Việt Nam.
Chín mươi năm từ khi
tiếng gậy trúc của chư tổ vang lên ở các tổ đình khởi đầu cho công cuộc phục
hưng Phật Giáo. Trong thời gian đó, bao nhiêu đổi thay đã xảy ra cho đất nước
Việt Nam và cho Đạo Phật tại Việt Nam. Hôm nay, một trong những vị còn lại của
thế hệ phục hưng Phật Giáo vừa viên tịch. Con thuyền đạo pháp như Thầy nhấn
mạnh sau 1975 vẫn còn chênh vênh và niềm trăn trở cho quê hương của Thầy vẫn
còn trăn trở.
Nhưng áng mây bay đi
sẽ mang về những giọt nước cho cánh đồng khô. Không có gì còn hay mất. Chỉ là
những dạng khác nhau trong một cuộc vận hành. Cành mai Quảng Độ vừa rơi xuống nhưng
như Thiền Sư Mãn Giác đời Lý viết, sáng mai đây, những cành mai khác lại sẽ nở
ra.
Bước chân của Thầy
không còn nghe nhưng tình yêu của Thầy dành cho quê hương vẫn sáng như ánh
trăng rằm, đậm đà như mùi hương của đất và dạt dào như lời thơ Thầy viêt trong
một Chiều Đông năm đó.
Từ nước Mỹ xa xôi, con
cúi đầu đảnh lễ giác linh Thầy.
Trần Trung Đạo
No comments:
Post a Comment