Trump, Clinton và tương lai của quan hệ Việt Nam-Mỹ
(Người dịch: Vũ
Quốc Ngữ)
(VNTB) - Quan hệ
song phương đã vượt qua một chặng đường dài. Mối quan hệ này tiến triển thế nào
dưới thời tổng thống tiếp theo của Hoa Kỳ?
Sau chuyến viếng thăm
lịch sử của Tổng thống Barack Obama đến Việt Nam và trong bối cảnh của cuộc đua
tổng thống đang diễn ra tại Hoa Kỳ, giờ là lúc thích hợp để xem xét tương lai
của quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Cụ thể, sau bầu cử vào ngày 08/11/2016, nước Mỹ sẽ
có một tổng thống mới.
Với việc Hoa Kỳ có hai
đảng lớn, tổng thống tiếp theo rất có thể là Donald Trump, người vừa nhận được
sự đề cử của đảng Cộng hòa, hay Hillary Clinton, người là ứng cử viên của đảng
Dân chủ [Điều quan trọng cần lưu ý là thách thức của Hillary Clinton, Thượng
nghị sĩ Bernie Sanders của Vermont, vẫn còn tiếp tục tranh cử tại thời điểm
viết của bài này, mặc dù Clinton đã đạt được những số phiếu cần thiết để khẳng
định sự đề cử của bà. Đối với ý khác của bài viết, tôi sẽ giả định rằng Hillary
Clinton là ứng cử viên của đảng Dân chủ.]
Nhận định về sự thay đổi
trong mối quan hệ Mỹ-Việt dưới thời Tổng thống Hillary Clinton hay Tổng thống
Donald Trump là cực kỳ quan trọng không chỉ đối với các bên liên quan tại Hà
Nội và Washington, mà còn cho cộng đồng quốc tế, đặc biệt là cho vai trò nổi
bật của Việt Nam trong vấn đề toàn cầu như trong tranh chấp lãnh hải và
lãnh thổ ở Biển Đông.
Xây dựng quan hệ đối tác
toàn diện
Trước khi suy đoán về
tương lai, chúng ta nên nhìn nhận mối quan hệ Hoa Kỳ-Việt đã phát triển đến đâu
kể từ khi Hoa Kỳ cắt đứt ngoại giao khi Việt Nam thống nhất đất nước năm 1975.
Mối quan hệ đã đi theo một tiến trình ba giai đoạn hướng tới một quan hệ đối
tác toàn diện.
Trong giai đoạn đầu
tiên, Hoa Kỳ và Việt Nam đã tìm cách xoa dịu căng thẳng và xây dựng lòng tin.
Các bước thực hiện của Hà Nội trong những năm 1980: áp dụng các cải cách kinh
tế theo hướng thị trường (Đổi mới), hợp tác về các vấn đề "di sản chiến
tranh" như các vấn đề quân nhân mất tích, tử trận (POW-MIA), và rút khỏi
Campuchia, tạo không gian cho cải thiện quan hệ với Washington. Những năm 1990
chứng kiến thành quả của những cố gắng này. Tổng thống Bill Clinton đã dỡ bỏ
lệnh cấm vận thương mại của Hoa Kỳ vào năm 1994, khôi phục quan hệ ngoại giao
vào năm 1995, và bổ nhiệm đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên kể từ khi chiến tranh kết thúc
vào năm 1997, và đã ký hiệp định thương mại song phương Hoa Kỳ-Việt Nam (BTA)
năm 2000.
Trong giai đoạn hai,
dưới chính quyền của Tổng thống George W. Bush, hai nước đã xây dựng những nền
tảng của quan hệ đối tác. Với việc thực hiện Hiệp định năm 2001, Hoa Kỳ bình
thường hóa quan hệ thương mại có điều kiện (NTR). Việt Nam bắt đầu trải qua
hiện tượng tăng trưởng kinh tế dựa một phần vào tăng kim ngạch xuất khẩu và đầu
tư đến Hoa Kỳ và nước khác. Từ năm 2000, tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam
đạt mức trung bình hơn 6% mỗi năm, chỉ đứng sau Trung Quốc. Trong thời gian này
Mỹ cũng đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Năm 2007, sau
khi tự do hóa hơn nữa nền kinh tế, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), là một thành viên đầy đủ và nhận được sự đối xử bình thường trong
quan hệ thương mại với Hoa Kỳ.
Quan hệ quân sự và an
ninh cũng được tăng cường. Ví dụ, trong năm 2005, Hoa Kỳ nhận đào tạo sĩ quan
quân đội Việt Nam và vào năm 2007, chính quyền Bush Hoa Kỳ giảm nhẹ Quy định
Buôn bán Vũ khí Quốc tế (ITAR), cho phép xuất khẩu các mặt hàng quân sự không
sát thương nhất định. Washington và Hà Nội cũng bắt đầu tổ chức hội nghị thượng
đỉnh hàng năm bàn về cải cách chính trị và kinh tế, cũng như các vấn đề an ninh
chiến lược ảnh hưởng đến cả hai nước. Đáng chú ý, các cuộc đối thoại chiến lược
Hoa Kỳ-Việt Nam được tổ chức thường xuyên khi Trung Quốc ngày càng thể hiện sự
hung hăng trong khu vực.
Giai đoạn thứ ba bắt đầu
với cuộc bầu cử của Tổng thống Barack Obama và sự phát triển của quan hệ đối
tác đầy đủ hơn và sâu hơn. Sau khi tham gia vào hai cuộc chiến tranh lâu dài ở
Trung Đông, Obama cam kết sẽ chuyển sự chú ý của Mỹ đối với những thách thức và
cơ hội trong tương lai ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chính quyền Obama đặc
biệt xác định Việt Nam là một trong những đối tác được phát triển theo chiến
lược "tái cân bằng" của tổng thống.
Phù hợp với cách tiếp
cận này, Hoa Kỳ đã nâng cao vai trò của Việt Nam trong quan hệ đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP), một hiệp định thương mại khu vực với sự tham gia của 12
quốc gia châu Á-Thái Bình Dương. Nếu được phê duyệt và thực hiện đầy đủ, TPP sẽ
bao gồm khoảng 40% GDP của thế giới. Việt Nam sẽ được tiếp cận nhiều hơn với
thị trường Hoa Kỳ và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngược lại, Việt Nam là đối
tác thương mại của Hoa Kỳ lớn thứ năm trong số các nước thuộc TPP và có vai trò
như là một điểm đến quan trọng cho xuất khẩu và vốn của Hoa Kỳ. Chính quyền
Obama cũng đã sử dụng TPP như phương tiện để thuyết phục Việt Nam thực hiện
những cải cách bổ sung như bảo vệ mạnh mẽ hơn quyền lợi của người lao động, sở
hữu trí tuệ, và nhân quyền. Nói rộng hơn, Hoa Kỳ xem TPP như một nền tảng cho
việc mở rộng ảnh hưởng của mình trong khu vực và khuyến khích hội nhập khu vực
lớn hơn. Trung Quốc bị lờ đi một cách có mục đích trong cuộc chơi TPP.
Ngoài ra, Việt Nam là
một con bài nổi bật trong chiến lược của Hoa Kỳ ở khu vực. Đối mặt với sự leo
thang chiến thuật của Trung Quốc ở Biển Đông, từ quấy rối hàng hải đế quân sự
hóa ở khu vực đảo nhân tạo, Hoa Kỳ đã tăng cường ngoại giao và quân sự của mình
trong khu vực. Chính quyền Obama đã tìm cách để thể chế hóa các cuộc tranh cãi
chủ quyền tại các diễn đàn khu vực như ASEAN và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, và
thúc đẩy việc sử dụng các cơ chế hòa bình để giải quyết tranh chấp như sử dụng
cơ chế trọng tài. Trong bài phát biểu gần đây của ông tại Hà Nội, Tổng thống
Obama cảnh cáo rằng sẽ chống lại việc cường quốc lớn "bắt nạt" những
nước nhỏ hơn. Để hỗ trợ cho những lời này, Washington đã tăng khả năng hiện
diện của Hoa Kỳ để cổ súy cho tự do hàng hải và cam kết tăng cường năng lực hải
quân của các đối tác như Việt Nam. Việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí của Hoa Kỳ
đối với Việt Nam của Tổng thống Obama có thể được xem trong bối cảnh an ninh
này.
Tóm lại, chuyến thăm của
Obama tới Việt Nam là đỉnh cao của một quá trình gồm ba giai đoạn theo đó Hoa
Kỳ và Việt Nam đã xây dựng một quan hệ đối tác toàn diện. Chuyến thăm của ông
cũng là một bước ngoặt trong quan hệ hai nước. Triển vọng lạc quan về tương lai
- không quá chú trọng đến quá khứ, là nền tảng của mối quan hệ song phương.
Trước mắt sẽ thấy cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ. Và cuộc đua tổng thống năm
2016 có ý nghĩa quan trọng cho quan hệ đối tác Hoa Kỳ-Việt và hơn thế nữa.
Với Hillary Clinton là
tổng thống: Tính liên tục và tăng cam kết
Nếu Hillary Clinton được
bầu làm tổng thống, bà ấy sẽ rất có thể tiếp tục cách tiếp cận của Tổng thống
Obama với Việt Nam và thậm chí có thể tăng cam kết của Washington với Hà Nội.
Hillary Clinton không chỉ phục vụ như Bộ trưởng Ngoại giao của ông Obama, nhưng
bà cũng hoàn toàn thu mình trong truyền thống và tục lệ của chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ. Về vấn đề này, bà sẽ là một tổng thống hay thăm viếng và có
nhiều kinh nghiệm trong lịch sử Hoa Kỳ hiện đại, đặc biệt là trong quan hệ với
Việt Nam. Ví dụ, với tư cách Đệ nhất phu nhân, bà đi cùng Tổng thống Bill
Clinton trong chuyến công du lịch sử của ông đến Việt Nam vào năm 2000, chuyến
thăm của tổng thống đầu tiên kể từ chuyến thăm của Tổng thống Richard Nixon năm
1969 tới nước Đông Nam Á.
Liên quan đến vấn đề
kinh tế, bà Hillary Clinton sẽ tìm cách mở rộng các thỏa thuận thương mại của
Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Như Ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà đã hỗ trợ
nhiều cho các cuộc đàm phán TPP. Ví dụ, trong năm 2012, trong khi ở Singapore,
bà đã đưa ra một bài phát biểu nhấn mạnh tiềm năng cho TPP trong việc hạ thấp
các rào cản, nâng cao tiêu chuẩn, và thúc đẩy tăng trưởng lâu dài trong khu
vực. Sau khi kết luận chính thức của TTP vào tháng Hai, Hillary Clinton ra dấu
hiệu phản đối các chi tiết của thỏa thuận, do đó có thể là một sự đảo ngược
trong chính sách của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, cử chỉ này có thể đơn giản chỉ là một
thủ đoạn chiến thuật trong bối cảnh không khí chính trị thù địch với tự do
thương mại hiện nay ở Hoa Kỳ.
Trong suốt nhiệm kỳ của
mình với chính quyền Obama, Hillary Clinton đã được biết đến là một trong những
thành viên "diều hâu” của nội các. Ví dụ, bà đã vận động để can thiệp
Libya và sự tham gia lớn hơn của Mỹ ở Syria, chẳng hạn như việc thực hiện vùng
cấm bay của do NATO quản lý. Thật vậy, bà có thể mạnh mẽ hơn Obama trong việc
khẳng định chính sách của Mỹ ở châu Á –Thái Bình Dương. Trong suốt chiến dịch,
bà Hillary Clinton đã hứa sẽ buộc Trung Quốc "có trách nhiệm" về
những hành động hung hăng của mình trong khu vực và tái khẳng định vai trò của
Mỹ là một cường quốc Thái Bình Dương. Ngày 02/6/2016, trong khi nói về các vấn
đề an ninh quốc gia, bà nhấn mạnh vai trò quan trọng của mạng lưới các đồng
minh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ. Bà cũng đã lên án mạnh mẽ
Donald Trump về những ý kiến của ông này về NATO và đồng minh của Hoa Kỳ ở châu
Á (như được đề cập dưới đây).
Hillary Clinton cũng
nhận thức được sự phát triển của các tranh chấp Biển Đông. Vào tháng 7/2010,
tại Diễn đàn thường niên Khu vực ASEAN với sự hiện diện của bộ trưởng ngoại
giao các nước thành viên tại Hà Nội, Ngoại trưởng Clinton khi đó tuyên bố rằng
tự do trên biển là "lợi ích quốc gia" của Mỹ và Hoa Kỳ phản đối việc
sử dụng hoặc đe dọa vũ lực bởi bất kỳ yêu sách nào ở Biển Đông. Để phản đối yêu
sách chín đoạn Trung Quốc đối với toàn bộ biển, bà cho rằng "tuyên bố hợp
pháp về không gian hàng hải ở Biển Đông nên được bắt nguồn chỉ từ tuyên bố hợp
pháp trên các tuyên bố chủ quyền về đất đai." Theo Luật Hợp Quốc về Công
ước Biển năm 1982 (UNCLOS), hòn đảo nhân tạo hoặc cấu trúc nhân tạo không có
lãnh hải hoặc vùng biển.
Với lịch sử của mình và
các bài nói trong chiến dịch tranh cử, sẽ là hợp lý cho chúng ta mong đợi
một tổng thống Hillary Clinton tiếp tục mở rộng quan hệ thương mại với Việt
Nam, thúc đẩy thể chế hóa các tranh chấp Biển Đông trong tổ chức đa phương như
ASEAN, tăng cường năng lực hàng hải và quân sự của các đối tác quan trọng như
Việt Nam, thách thức Trung Quốc tuân thủ quy tắc được thừa nhận của tự do hàng
hải, và mạnh mẽ duy trì quyền tự do hàng hải và hàng không.
Tổng thống Donald Trump:
điều chỉnh và tính không chắc chắn
Nếu Donald Trump đã được
bầu làm tổng thống, chúng ta có thể mong đợi những bất ngờ. Ông là một ứng cử
viên độc đáo cho chức tổng thống Hoa Kỳ. Đây là chiến dịch đầu tiên của ông
chạy đua vào một vị trí công quyền, trước khi công bố quyết định tham gia ứng
cử, hình ảnh của ông gắn liền với bất động sản, trên truyền hình và các tờ báo
lá cải. Có lẽ không ngạc nhiên, Donald Trump đã tiến hành một chiến dịch thách
thức những giả định chung cơ bản chiến dịch tranh cử tổng thống Hoa Kỳ, cả về
đề nghị giao thức và chính sách. Tóm lại, Donald Trump đang chạy đua như một
"người ngoài" tìm cách phá vỡ tiến trình chính trị của Hoa Kỳ.
Trong bài phát biểu
chính về chính sách đối ngoại của mình, Donald Trump đã công bố một chủ đề -
Nước Mỹ đầu tiên – dường như mang tính tiêu chuẩn (tất cả các nước khẳng định
lợi ích cá nhân của họ), nhưng các chi tiết của chính sách của ông khác biệt
với các nguyên tắc truyền thống trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Ví dụ,
trong một nỗ lực để chống nhập cư bất hợp pháp và tội phạm có liên quan, ông đã
hứa sẽ "xây dựng một bức tường" giữa Hoa Kỳ và Mexico, một trong ba
đối tác thương mại lớn nhất nước mình. Trong cuộc chiến chống khủng bố, Donald
Trump đưa ra ý tưởng của việc tra tấn nghi phạm khủng bố và tấn công gia đình
của chúng. Để đối phó với các cuộc tấn công khủng bố tại California vào tháng
12/2015, ông đề xuất một lệnh cấm tạm thời đối với người Hồi giáo vào nước này.
Đối với Việt Nam và rộng
hơn là châu Á-Thái Bình Dương với, có ít nhất bốn lĩnh vực mà Donald Trump sẽ
điều chỉnh lại trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, và do đó, tạo ra sự không
chắc chắn.
Thứ nhất, về vấn đề
thương mại, Donald Trump đã chống lại các hiệp định thương mại tự do. Ông đã
kịch liệt phản đối TPP - mô tả nó như là "một thỏa thuận khủng khiếp"
chủ yếu mang lại lợi ích cho Trung Quốc và gây hại cho nước Mỹ (mặc dù Trung
Quốc không tham gia TPP). Donald Trump cũng nghi ngờ WTO và đã chỉ trích sự có
mặt của Trung Quốc với tư cách thành viên trong tổ chức này. Để hỗ trợ các công
ty và người lao động Hoa Kỳ chống cạnh tranh "không công bằng", ông
đã cam kết thực hiện một loạt các biện pháp trả đũa chống lại Trung Quốc trong
việc thao túng tiền tệ, trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước, và trộm cắp tài
sản trí tuệ. Chính sách này có thể được mở rộng đối với các nước châu Á khác mà
Hoa Kỳ có thâm hụt thương mại, chẳng hạn như Việt Nam.
Thứ hai, Donald Trump đã
chỉ trích vai trò của hệ thống liên minh của Hoa Kỳ trên toàn thế giới, từ NATO
đến Thái Bình Dương. Ông tin rằng các liên minh đang mất cân đối và đồng minh
của Mỹ nên gánh thêm trách nhiệm hoặc Mỹ sẽ không tham gia nữa nếu quá tốn kém
đối với Hoa Kỳ. Ví dụ, Donald Trump đã đề xuất rằng các đồng minh hiện đang
được bảo vệ bởi những chiếc ô hạt nhân của Hoa Kỳ, như Saudi Arabia, Nhật Bản
và Hàn Quốc, nên tìm kiếm vũ khí hạt nhân cho riêng mình.
Thứ ba, Donald Trump đã
tuyên bố sẽ không can thiệp vào các cuộc xung đột mà không trực tiếp đe dọa an
ninh Hoa Kỳ. Ông đã chỉ trích nặng nề sự can thiệp của Mỹ tại Iraq và Libya,
coi đây là sai lầm và gây hại cho lợi ích của Mỹ. Donald Trump đã không đưa ra
một quan điểm rõ ràng về vùng Biển Đông, nhưng cho rằng Hoa Kỳ không phải nước
có yêu cầu chủ quyền và do đó không có cam kết với khu vực. Thái độ của ông là
để cho các nước như Việt Nam và Philippines tự bảo vệ lợi ích của mình.
Thứ tư và rộng hơn,
Donald Trump đã nhìn một cách hoài nghi về vai trò của Hoa Kỳ như người bảo
lãnh của trật tự quốc tế. Kể từ khi chiến tranh thế giới thứ 2, Hoa Kỳ đã trở
thành nước cung cấp các giá trị toàn cầu, chẳng hạn như phát triển các tổ chức
quốc tế, duy trì sự tự do trên biển, phát huy giá trị dân chủ, và phục vụ như
là lực lượng cân bằng trong các xung đột quốc tế. Các chính sách của ông trong
“Nước Mỹ đầu tiên” chưa rõ ràng và có nhiều nghi ngờ liệu Donald Trump có tiếp
tục đường lối như ông đã nói. Yếu tố này tạo ra sự không chắc chắn lớn cho
tương lai của quan hệ quốc tế.
Cho dù Donald Trump hay
Hillary Clinton, ngày 08811/2016, Mỹ sẽ chọn một tổng thống mới và sự lựa chọn
này sẽ mang lại tác động lớn đến Việt Nam và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Roncevert Ganan Almond
là một đối tác của Wicks Group, có trụ sở tại Washington DC. Ông làm việc với
tư cách cố vấn các chính phủ ở châu Á, châu Âu, Trung Đông, châu Phi và Mỹ
Latinh về các vấn đề luật pháp quốc tế. Ông từng là trợ lý chiến dịch tranh cử
của bà Hillary Clinton năm 2008, nhưng hiện tại không liên kết với bất kỳ chiến
dịch nào.
No comments:
Post a Comment