Trần Trung Đạo: Thời sinh viên ở Sài
Gòn
Nhân
dịp đọc bài viết của Hoàng Thanh Trúc trên Dân Làm Báo và qua đó đọc thêm các
bài viết khác Không hổ thẹn về một thời trai trẻ của một nhóm tác giả và
Cuộc họp mặt “có một không hai” của Huỳnh Tấn Mẫm trên báo Tuổi Trẻ sau
buổi hội thảo “tầm vóc và ý nghĩa của phong trào đấu tranh của sinh viên –
học sinh trí thức, văn nghệ sĩ… tại các đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975” được
tổ chức tại Đại học Duy Tân (Đà Nẵng) trong hai ngày 19 và 20-5-2012, tôi chợt
nhớ lại một bài thơ tôi viết từ lâu lắm cũng có nhắc đến các anh chị này.
Bài
thơ Đêm cuối đi qua trường Luật viết ra trong những ngày mới đến Mỹ
nhưng bắt nguồn từ những ý hiện lên trong một đêm mưa tháng Sáu 1981 ở Sài Gòn.
Tôi không ghi lại ngày tháng viết bài thơ nhưng có in trong tập thơ đầu tay ở
Mỹ năm 1991. Bài thơ khá dài, dưới đây là một đoạn có liên quan đến bài viết
này:
Trời
Sài Gòn tháng Sáu mưa đêm
Như
từng nhát dao chém xuống đời vội vã
Tôi
ra đi dặn lòng quên tất cả
Những
hẹn thề toan tính thuở hoa niên
Bốn
phương trời lưu lạc một bầy chim
Đã
lạc lối về sông Dương Tử
Tổ
quốc Việt Nam
Bốn
nghìn năm lịch sử
Còn
lại hôm nay là những tang thương
Tôi
nhìn qua bên góc kia đường
Tấm
bảng Hội Liên Hiệp Sinh Viên
Vẫn
còn đong đưa trên vách
Chợt
nhớ ra tên các chị các anh
Những
Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban
Những
Nguyễn Hoàng Trúc, Võ Như Lanh
Các
anh, các chị
Giờ
nầy chắc vẫn còn đang thức
Để
viết xong bài tự kiểm trước nhân dân
Nhớ
viết thật nhiều về những chiến công
Đã
đốt bao nhiêu xe Mỹ Ngụy
Đã
bán đứng bao nhiêu bè bạn anh em
Đã
cắm được bao nhiêu cờ mặt trận
Tôi
không hề trách các anh
Vì
chẳng bao giờ ai trách
Những
tên cầm cờ, khiêng kiệu
Hãy
cố cong lưng và thu mình thật nhỏ
Hãy
biết dại khờ và biết ngây ngô
“Độc
lập, Hòa Bình, Thống Nhất, Tự Do
Phải
nhớ luôn luôn là tất yếu
Kể
cả chuyện tình yêu trai gái
Cũng
phải học thuộc long
Định
nghĩa mới hôm nay
Đừng
bao giờ nhắc những chuyện không may
Như
những Ủy Ban Đòi Quyền Sống
Những
Phong Trào Dân Chủ Tự Do
Dân
Việt Nam bây giờ
Không
có gì đáng để lo
Hơn
những chuyện cháo rau, khoai sắn
Và
không có một chút quyền
Dù chỉ là quyền để than thân
trách phận.
Tôi
từ Đà Nẵng vào Sài Gòn cuối tháng Tám 1972. Nơi tôi ghi danh học đầu tiên là
trường Luật. Có thể nói tôi là một trong những tân sinh viên nộp đơn vào năm
thứ nhất niên khóa 1972-1973 trễ nhất. Ghi danh vào trường Luật không cần phải
thi, chỉ cần trình bằng tốt nghiệp Tú Tài phần hai là đủ. Phòng ghi danh là một
khu nhà lụp sụp phía sau trường chung một hàng rào với đại học Kiến Trúc. Tôi
được phát một thẻ sinh viên tạm. Số sinh viên của tôi dài tới năm số. Tôi không
nhớ chính xác nhưng hai số thứ tự đầu đã lên đến trên mười ngàn. Trường Luật,
được chính thức thành lập dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa, là một trong những trường
già nua về cả hình thức lẫn chiều dài lịch sử, trong số các trường đại học
thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Trường không có nhiều đất trống ngoại trừ khoảng
sân không mấy rộng giữa trường. Cổng trường còn lại những viên ngói đỏ rêu
phong từ khi mới thành lập. Giảng đường chỉ là những phòng học dài nối nhau. So
với các trường trung học như Gia Long, Petrus Ký, trường đại học Luật Khoa Sài
Gòn nhỏ hẹp và chật chội hơn nhiều. Vì số thẻ sinh viên của tôi cao trên mười
ngàn nên có lần tôi viết câu thơ mô tả trường Luật “mười ngàn sinh viên
trong giảng đường vài trăm chỗ / học suốt năm không thấy mặt thầy”.
Công
việc đầu tiên của một tân sinh viên sau khi ghi danh, nhận lớp, là đi mua “cua”
tức sách giáo khoa giảng dạy của các thầy, từ dân luật, hình luật đến cổ luật.
Vì hiếm khi gặp mặt thầy, không có “cua” là rớt. Sau khi ghi danh ở Luật, tôi
sang ghi danh Ban Kinh Tế khoa Khoa Học Xã Hội ở đại học Vạn Hạnh. Khoa Khoa
Học Xã Hội ở Vạn Hạnh phải thi vào nhưng cũng chỉ thi cho đúng thủ tục vì tôi
không nghe ai thi rớt vào khoa Khoa Học Xã Hội ở đại học Vạn Hạnh bao giờ.
Trường
Luật chật hẹp mà sinh viên lại quá đông, chúng tôi thường la cà trong những
quán cốc. Nhiều nhất là chung quanh công trường Quốc Tế, thường gọi là Hồ Con
Rùa, bên ngoài trụ sở “Tổng Hội Sinh Viên” số 4 Duy Tân hay góc Thư Viện Quốc
Gia trên đường Gia Long. Các quán cà phê thường không có tên. Ngoài quán cà phê
Bà Vú bên ngoài đại học Vạn Hạnh, phần lớn các quán chung quanh trường Luật do
sinh viên tự đặt tên bằng địa điểm để dễ hẹn nhau. Số sinh viên ghi danh vào
Luật cao nhưng bỏ trường ra đi sớm rất đông và thi rớt cũng nhiều. Trong số
những người bỏ cuộc có tôi. Tôi học cả hai trường và vì kỳ thi cuối khóa cùng
ngày nên tôi không theo đuổi việc học Luật hết năm thứ nhất. Bạn bè tôi phần
đông học Luật nên mỗi tuần tôi đều trở lại trường. Ở đó, dưới những gốc me, vỉa
phố, bên những ly cà phê đen, cà phê sữa, trên những ghế thấp, cạnh những chiếc
bàn vuông, chúng tôi để cho những thao thức về chiến tranh và số phận đất nước
có dịp tuôn trào. Tuổi đời còn rất trẻ nhưng chiến tranh đã làm chúng tôi già
sớm hơn tuổi mười tám của mình.
Khi
sang Vạn Hạnh tôi có dịp học với thầy Trần Văn Tuyên môn Chính Trị Quốc Nội và
thầy Vũ Quốc Thông môn Luật Hiến Pháp Đối Chiếu. Đây là hai môn học tôi thích
nhất. Luật Sư Trần Văn Tuyên không mang theo sách vở hay tài liệu giảng dạy gì
và những bài giảng của thầy là kinh nghiệm sống trong thời hoạt động chính trị.
Vì thầy dạy không theo giáo khoa nên giảng đường lúc nào cũng đông. Sinh viên
phải có mặt để ghi lời thầy giảng. Tôi thường tìm cách gần gũi thầy Trần Văn
Tuyên để hỏi những chuyện đất nước trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954.
Thầy Trần Văn Tuyên đơn giản, tóc cắt cao và thường mặc áo sơ-mi trắng ngắn
tay. Thầy Vũ Quốc Thông thì khác, lúc nào cũng đường bệ, chuẩn bị kỹ càng và
luôn đến lớp với một cặp-táp (le cartable) đầy tài liệu giảng dạy. Tôi hay thắc
mắc với thầy Vũ Quốc Thông về cách dùng chữ. Ví dụ thầy dùng chữ “Chủ nghĩa Tập
Sản” thay cho “Chủ nghĩa Cộng Sản”. Tôi cho rằng khái niệm “Chủ nghĩa Tập Sản” hay
“Chủ nghĩa Bình Sản” được nhắc đến nhiều trước năm 1975, chỉ là một phạm trù
thuần kinh tế, nghĩa hẹp nhiều so với chủ nghĩa Cộng Sản vốn là cả một hệ thống
triết học giải thích toàn bộ đời sống con người, xã hội và vũ trụ. Thầy chăm
chú lắng nghe ý kiến nhưng không thay đổi cách gọi “tập sản” của mình. Thầy Vũ
Quốc Thông dạy tận tụy và trích dẫn nhiều từ các sách Pháp, trong đó có cả
Tuyển tập Marx-Engel. Thầy chúng tôi, Giáo sư Trần Văn Tuyên chết trong tù Cộng
Sản năm 1976 và Giáo sư Vũ Quốc Thông chết năm 1987, chỉ một thời gian ngắn sau
khi ra khỏi nhà tù. Tình nghĩa thầy trò ở miền Nam, dù tiểu học, trung học hay
cả đại học đều thắm thiết, thân thương, đáng kính, đáng yêu và đáng nhớ. Tôi cố
gắng rất nhiều nhưng không phải là người tự học. Kiến thức của tôi là của các
thầy cô trao lại. Đứa sinh viên năm thứ nhất ngày xưa không còn trẻ nữa nhưng
mỗi khi nghĩ đến các thầy cô tự nhiên thấy mình nhỏ lại thật nhiều.
Thời
gian từ năm 1973 đến năm 1975 là thời gian yên tỉnh. Chương trình bình định đại
học khá thành công. Mùa hè năm 1973, một nhóm sinh viên chúng tôi đại diện cho
trường tham dự trại hè sinh viên toàn quốc do Bộ Giáo Dục và Thanh Niên tổ chức
ở Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Đông sinh viên du học cũng về tham dự trại.
Dĩ nhiên không có “lãnh tụ sinh viên” đường phố nào. Đó là những ngày vui nhất
của mùa hè. Không chỉ sinh viên Sài Gòn, Vạn Hạnh, Minh Đức mà cả Huế, Cần Thơ,
Đà Lạt và các trường đại học tư mới thành lập cũng cử phái đoàn tham dự. Buổi
tối chúng tôi quây quần trong sân cờ của trường Thiếu Sinh Quân trao đổi kinh
nghiệm học hành, chuyện đất nước và hát nhạc Du Ca như có lần tôi đã kể lại
trong bài viết Khi bài hát trở về. Ngoại trừ các nhóm chống chính phủ bốn mùa
của các bà Ni Sư Khất Sĩ Huỳnh Liên, Phong Trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống của bà
Ngô Bá Thành, năm 1973, các phong trào sinh viên tranh đấu ở Sài Gòn do Cộng
Sản tổ chức phần lớn đã được dập tắt. Các “lãnh tụ sinh viên học sinh” mặt nổi
như Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban, Trần Thị Lan, Lê Văn Nuôi, Võ Như Lanh,
Nguyễn Xuân Lập v.v. đã bị kết án và vừa được trao trả tù binh.
Nhắc
đến chuyện trao trả tù binh không thể quên tác phẩm Tù Binh và Hòa Bình của nhà
văn Phan Nhật Nam, trong đó anh dành trọn một chương để viết về những người mà
anh gọi là “Những người lỡ làng”. Hôm đó, buổi chiều ngày 27-3-1973, những
“lãnh tụ sinh viên” sắp được trao trả về phía Cộng Sản đang tụm nhau ngồi trong
một chiếc lều để chờ được nhận. Những bài hát của Phạm Thế Mỹ, Trịnh Công Sơn
được cất lên từ chiếc lều nhỏ. Họ gồm Võ như Lanh, Trịnh đình Ban, Cao thị quế
Hương, Trần thị Lan, Trần thị Huệ, Nguyễn thành Công. Không ai biết họ hát để
nung cao khí thế hay hát để che đi sự lo âu trước tương lai mờ mịt núi rừng
đang chờ đợi họ. Trong quan điểm đấu tranh giai cấp, dù các anh chị là đảng
viên Cộng Sản cũng chỉ là đảng viên thành phố, gốc tiểu tư sản, vừa gia nhập và
không được tin tưởng hoàn toàn. Nhà văn Phan Nhật Nam tả cảnh anh Nguyễn Thành
Công khi tiếp xúc với viên Đại Tá Hungary trong “đôi mắt có vẻ lạc thần, giọng
nói đã đượm màu mệt mỏi”. Anh Phan Nhật Nam viết đoạn đó thật cảm động. Anh
không giận hay trách móc những tù binh gốc sinh viên anh sắp sửa trao trả mà
cảm thông cho sự bồng bột tuổi trẻ của họ nhiều hơn:
“Phải,
tôi hiểu rằng nhóm sinh viên đang ngồi ở dưới tàn cây cao su, đang gảy nên
những âm thanh trầm lắng với tiếng hát nhiệt thành trong sáng kia quả tình
không thể nào là những người cộng sản được. Họ không thể nào là những người
cộng sản chuyên chính, dù cho họ đã vào khu học tập, dù đã là cán bộ nội thành
làm nhiệm vụ sinh viên vận theo đường lối và kỹ thuật đấu tranh phát xuất từ
Cục R, kiểm soát và điều hành bởi ủy viên thanh niên thuộc thành ủy Sài Gòn-Chợ
Lớn. Họ cũng không phải là cộng sản dù có chứng minh thư xác nhận là thành viên
của đảng lao động, hoặc thành viên của đoàn thanh niên trong mặt trận giải
phóng…Vì tiếng hát, điệu đàn, nét mặt và lời nói tất cả vẫn là phản ảnh của một
hoài bão, hoài bão bất diệt của tuổi trẻ. Muốn thoát khỏi hoàn cảnh bít bùng
của đời sống hiện tại, đấu tranh và xây dựng một quê hương rạng rỡ tốt đẹp hơn.
Và chính phát xuất từ ý định đẹp đẽ mơ tưởng này, hoài bão của họ đã được đồng
hóa với mục tiêu chiến thuật đoản kỳ của cộng sản. Và họ trở thành loại cán bộ
tiền phong đắc lực thực hiện những mục tiêu hạn chế trong đường phố Sài Gòn,
nơi Giảng Đường, trong lòng cộng đồng tuổi trẻ Việt Nam.”
Trong
bài viết Những người đi tìm tổ quốc trên talawas năm 2006, tôi cũng viết
về các anh chị đó:
“Thời
sôi nổi trong giảng đường đại học, trên đường phố Sài Gòn đã là dĩ vãng, giữa
rừng cao su Lộc Ninh họ là những thanh niên thành phố đang bước vào một cuộc
đời mới ở một nơi hoàn toàn xa lạ. Như những con cá bị vớt khỏi sông và bỏ vào
trong chậu, ngơ ngác, rụt rè, sợ hãi. Họ không còn là bè bạn của nhau, không
còn gọi nhau bằng tên, bằng thứ mà sẽ là đồng chí. Đồng chí cũng đồng nghĩa với
nghi ngờ, kiếm soát và dò xét lẫn nhau. Họ hối hận không? Họ thật sự có phải là
Cộng sản không? Họ có phân biệt được, dù chỉ là căn bản, những điểm khác nhau
giữa xã hội mà họ vừa bỏ lại và xã hội mà họ đang tìm đến không? Không ai hỏi
và họ cũng sẽ không trả lời thật với lòng. Có những tâm sự, sống giữ kín chết
mang theo, chứ không bao giờ chia sẻ với ai. Hồi xưa tôi cũng có cái nhìn khắt
khe về những người bỏ đi. Các anh có quyền biểu tình, có quyền chống độc tài,
chống tham nhũng, chống độc diễn nhưng khi bỏ đi sang hàng ngũ của những người
ném lựu đạn vào quán ăn, pháo kích vào trường học, đặt mìn trên quốc lộ, các
anh đã phản bội quyền sống trong hoà bình của nhân dân miền Nam. Giống như
những đứa con lớn lên trong một gia đình nghèo, có bà mẹ bịnh tật, có người cha
say rượu hay đánh đập con cái và còn một bầy em nhỏ dại. Thay vì khuyên răn
người cha, săn sóc người mẹ, che chở cho đám em khờ, các anh lại bỏ đi, và
chẳng những đã bỏ đi mà còn dắt kẻ gian về đốt phá nhà mình.”
Ngày
nay, các tài liệu của Đảng đều xác nhận hoạt động của các phong trào chống đối
chính quyền VNCH chẳng phải là tự phát chống bất công, độc tài, độc diễn gì mà
đều được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thành Đoàn Thanh Niên Cộng Sản trực
thuộc Thành ủy Sài Gòn Gia Định nhắm vào mục tiêu duy nhất là đánh sụp chế độ
Cộng Hòa non trẻ ở miền Nam và áp đặt chế độ Cộng Sản độc tài toàn trị trên
phạm vi cả nước. Tất cả tổ chức, phong trào, tôn giáo, đoàn thể đều được Đảng
khai thác, vận dụng một cách tinh vi để phục vụ cho mục đích cuối cùng của đảng
Cộng Sản.
Những
tên tuổi, hình ảnh được báo chí đối lập và thân Cộng ở Sài Gòn đánh bóng mà nhà
văn Phan Nhật Nam nhắc đến chỉ là những khuôn mặt đấu tranh công khai trên
đường phố Sài Gòn. Họ không biết những đảng viên Cộng Sản nòng cốt thực sự điều
khiển phong trào từ bóng tối là ai. Những kẻ mài dao giết người thường trốn kỹ
trong rừng. Những kẻ trao lựu đạn cho sinh viên để ném vào nhà hàng, trường
học, chợ búa thường giấu mặt. Họ không gọi nhau bằng tên thật, bằng mày tao
thân tình trong quán cà phê bên ngoài khuôn viên đại học Văn Khoa, Luật Khoa mà
gọi bằng bí danh, bằng thứ tự.
Những
“anh ba”, “chị năm” đó bây giờ đang sống trong những biệt thự cao sang, có kẻ
hầu người hạ và những chàng sinh viên một thời bồng bột nay chỉ là những “kẻ lạ
của hoàng hôn” “lặng nghe những dư âm sâu lắng của quá khứ đọng lại, rồi trôi
theo những món ăn với một vị đắng đắng” như anh Hạ Đình Nguyên, một trong những
“lãnh tụ phong trào sinh viên” đã viết trong bài Về một vị đắng sau buổi
họp mặt kỷ niệm “Phong trào Đấu tranh của Thanh niên-Sinh viên-Học sinh Sài
gòn” năm ngoái.
Khi
tôi vào năm thứ nhất, nhiều trong số anh chị tham gia xuống đường vài năm trước
vẫn còn học năm thứ ba, thứ tư, và qua họ tôi biết con số sinh viên tham gia
biểu tình không đông như báo chí thân Cộng mô tả và cũng không mang tầm vóc
“quốc tế” chỉ với vài chàng thanh niên phản chiến Mỹ như bài ký thổi phồng của
anh Huỳnh Tấn Mẫm. So với nhiều chục ngàn sinh viên liên khoa thuộc đại học Sài
Gòn và các đại học tư tại miềm Nam thời đó, vài trăm anh chị bị xúi giục xuống
đường chỉ là con số nhỏ. Thành thật mà nói, phần đông những sinh viên đi biểu
tình là những người nặng tình cảm dành cho đất nước nhưng vô cùng nông nỗi. Các
anh chị bất mãn trước các bất công trong xã hội và phẩn uất khi nhìn cảnh điêu
tàn đổ nát do cuộc chiến gây ra nhưng không nhận thức đúng nguyên nhân sâu xa của
thực trạng bi thảm đang diễn ra trên đất nước và không đủ trưởng thành để cân
nhắc trước một chọn lựa sinh tử của đời mình.
Tuổi
trẻ ở đâu cũng thế, nhiệt tình, phản kháng, cương trực, vô tư, nhưng như tôi có
lần đã viết, tại Việt Nam những đặc tính đó của tuổi trẻ bị Đảng Cộng sản lợi
dụng tận cùng, không chỉ tiếng hát lời ca, mà còn cả thịt xương và từng giọt
máu.
Bài
hát quen thuộc trong giới sinh viên trước năm 1975 nói lên một mơ ước chân
thành của thế hệ trẻ “Rồi hòa bình sẽ đến, đến cho dân tộc Việt, đôi bồ câu
trắng rủ nhau về làng xưa…”, nhưng sau năm 1975, đàn bồ câu đã biến thành bầy
kiến gặm nhấm vết thương dân tộc đang mưng mủ. Tiếng hát của các anh chị trên
đường phố được thay bằng những tiếng rên của những bà mẹ đang bán máu ở các nhà
thương. Lời ca của các anh chị sau được thay bằng là tiếng khóc của em thơ trên
các vùng kinh tế mới. Đất nước chìm đắm trong độc tài và đói khát. Hàng triệu
người phải bỏ nước ra đi, chết trên biển cả, chết dưới bàn tay hải tặc.
Các
anh các chi, có thể không phải là thủ phạm nhưng không thể phủ nhận là những
người đã góp phần gây ra những điêu tàn đổ nát hôm nay. Xin đừng im lặng nữa.
Nếu không đủ sức để hành động, hãy viết, hãy nói, hãy kể lại cho các thế hệ trẻ
những bài học dù thất bại, những ước mơ dù bị phản bội, những kinh nghiệm dù
được đổi bằng xương máu của mình. Là những người có lương tâm, hôm nay, không
có tòa án nào kết án các anh chị nặng bằng tòa án lương tâm của chính các anh
chị. Là những người vốn nặng tình cảm, hôm nay, không có tình cảm nào cấu xé
các anh chị bằng tình cảm các anh chị đã từng dành cho đất nước. Xã hội Việt
Nam băng hoại, trụy lạc, tha hóa ngày nay là chiếc gương, các anh chị hãy soi
vào đó để thấy lại chính mình.
Chế
độ dân chủ non trẻ mà các anh chị góp phần đánh gục, đã quỵ xuống sáng ngày
30-4-1975 nhưng không chết. Và tại Việt Nam hôm nay, các gía trị dân chủ quý
giá đó không chỉ là của miền Nam thôi, không chỉ là của Việt Nam Cộng Hòa thôi
mà đang là tài sản, hành trang và mục tiêu chung của cả dân tộc.
Dân
chủ là khúc khải hoàn ca đang được nhân loại cất vang trên mọi nơi của quả địa
cầu, từ Bắc Phi sang Đông Á nhưng không có nghĩa chỉ mới bắt đầu vài năm qua mà
từ nhiều ngàn năm trước. Có người bàn về dân chủ như một mục đích đòi hỏi nhiều
tiền đề và điều kiện. Điều đó không đúng. Dân chủ không phải là hải đảo xa xôi
phải cần ghe tàu, lương thực, thời gian mới đạt tới nhưng là một thực tế gần
gũi trước mắt và thậm chí có thể nắm bắt trong tay. Dân chủ không phải món quà
của ai ban cho khi đến tuổi trưởng thành mà là quyền làm người bắt đầu từ trong
bụng mẹ.
Quốc
gia Mông Cổ, một quốc gia không có truyền thống dân chủ, là một ví dụ. Nhiều
người cho Mông Cổ khó có thể trở thành một nước dân chủ sau một giai đoạn phong
kiến hàng ngàn năm nối tiếp bằng một chế độ Cộng Sản chuyên chính chư hầu Liên
Xô suốt hơn bảy chục năm. Khi tôi viết bài này, nhân dân Mông Cổ đánh dấu tròn
20 năm được sống dân chủ. Đôi cánh thiên thần đó đã giúp đưa Mông Cổ từ một
quốc gia cô lập, bất ổn cùng hạng với Afghanistan, Nigeria và Somalia trở thành
một trung tâm du lịch an toàn và đầy hấp lực văn hóa. Hai mươi năm trước đường
phố thủ đô Ulaanbaatar gần như hoang vắng nhưng ngày nay tấp nập và phồn vinh.
Theo tạp chí Economist, dù kinh tế thế giới còn đầy khó khăn, mức phát triển
kinh tế của Mông Cổ trong ba tháng giữa 2011 đã tăng 21% so với cùng thời kỳ
trong năm trước đó. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế dự đoán kinh tế Mông Cổ sẽ tăng trung
bình 14% từ 2012 đến 2016. Là một quốc gia trong vị trí trái độn với vỏn vẹn
2.5 triệu dân và không có chiều dày truyền thống dân chủ như nhiều quốc gia
khác, Mông Cổ sẽ còn gặp nhiều khó khăn nhưng cơ chế chính trị mới giúp cho
người dân sống yên tâm trong tự do, thanh bình, no ấm và nỗ lực vì một tương
lai tươi đẹp cho con cháu họ.
Việt
Nam thì khác.
Sau
37 năm, tiếng súng đã vắng đi trên đất nước Việt Nam, non sông liền một dải
nhưng người dân vẫn sống trong nỗi bất an lo sợ, hàng trăm ngàn người con gái
Việt phải rời bỏ quê hương đi ăn mày, làm điếm, ở đợ khắp thế giới, phần lớn
trong số hơn hai triệu người Việt hải ngoại vẫn còn bị xem là “thành phần phản
động bám theo chân đế quốc”, và trong nước, những quyền căn bản như ngôn luận,
đi lại, thờ phụng của người dân vẫn chưa có được, hàng ngàn người yêu nước vẫn
còn bị tù đày. Đó là sự thật, không ai tuyên truyền ai, không ai xúi giục ai.
Sau
37 năm, mấy chục ngàn thân xác thanh niên làm bia đở đạn cho đảng CSVN trong
chiến tranh biên giới năm 1979, hàng ngàn xác thanh niên Việt Nam bị đốt cháy
thành than trong trận Lão Sơn 1984, hàng trăm xác thanh niên Việt chìm sâu quanh
bờ đảo Gạc Ma năm 1988, hàng trăm ngư dân Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi bị bắn
thủng ngực, hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa thân yêu như đôi mắt Việt Nam bị đã
bị kim Trung Quốc tẩm thuốc độc đâm sâu và đang chảy máu. Đó là sự thật, không
ai tuyên truyền ai, không ai xúi giục ai.
Nhìn
những gì đang xảy ra trên thế giới đã làm những người Việt đang quan tâm đến
vận mệnh đất nước không khỏi cảm thấy thẹn thùng. Dù ban ngày vẫn phải sống
bằng thái độ tích cực, trả lời phỏng vấn bằng ngôn ngữ tự tin nhưng ban đêm thế
nào cũng gác tay lên trán âm thầm tự hỏi tại sao Liên Xô, Đông Âu cho tới Bắc
Phi, Miến Điện nhưng viễn ảnh một Việt Nam tự do, dân chủ, hùng mạnh vẫn còn là
một mục tiêu chưa đến. Nỗi lo lắng và niềm đau xót này không phải của riêng ai
mà của tất cả người Việt Nam còn biết xót xa, còn biết hổ thẹn trước sự lạc hậu
của Việt Nam so với đà tiến quá nhanh của nhân loại.
Một
câu hát trong bài Tự Nguyện quen thuộc trong giới sinh viên trước năm 1975 “nếu
là hoa, tôi sẽ làm một đóa Hướng Dương”, chưa bao giờ hơn lúc này Việt Nam cần
những người yêu nước biết vươn cao, đứng thẳng như những cành Hướng Dương Dân
Tộc. Con người đến và đi nhưng lịch sử Việt Nam như dòng sông không ngừng chảy.
Đất nước sẽ vượt qua và lớn lên như đã từng vượt qua và lớn lên sau ngàn năm
Bắc Thuộc.
Trần Trung Đạo
https://www.facebook.com/notes/tr%E1%BA%A7n-trung-%C4%91%E1%BA%A1o/tr%E1%BA%A7n-trung-%C4%91%E1%BA%A1o-th%E1%BB%9Di-sinh-vi%C3%AAn-%E1%BB%9F-s%C3%A0i-g%C3%B2n/442879992402659
No comments:
Post a Comment