NHỮNG TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG và
CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA
Quân đội VNCH chính thức buông súng
và tan rã vào trưa ngày 30/4/75, sau nhật lệnh đầu hàng của Chuẩn tướng Nguyễn
Hữu Hạnh, một tên nằm vùng được Tổng thống 3 ngày Dương Văn Minh bổ nhiệm làm
quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. Đó là một ngày đen tối mà cho đến hôm nay, sau đúng
40 năm, hầu như vẫn còn in rõ trong tâm niệm của hàng triệu người lính cũ của
quân đội miền Nam cùng với những cảm nghĩ cay đắng, đau xót. Những cảm nghĩ ấy
có lẽ cũng được cả những người chết mang theo
Bốn mươi năm sau khi tan hàng rã
ngũ bằng một cuộc bức tử kinh tởm, chân dung thật của người lính VNCH vẫn còn
bị che mờ sau những màn khói huyền thoại, phản bội và vô ơn. Có lẽ trong lịch
sử thế giới, không có người lính nước nào phải chịu một số phận nghiệt ngã như
người lính VNCH. Trong khi cầm súng chiến đấu và sau khi đã buông súng hằng
chục năm, người lính ấy vẫn chưa thoát khỏi cái số phận nghiệt ngã bám theo
mình.
Tuyên truyền CS vu cáo họ là
"những tên lính đánh thuê", là bọn "ngụy quân" phản quốc,
làm tay sai cho ngoại bang giết hại đồng bàọ. Báo chí phương Tây, kiêu ngạo và
bất công - qua một số cấp chỉ huy thối nát, bất xứng - vẽ lên hình ảnh những
người lính chỉ biết nhũng nhiễu dân, bỏ chạy trước địch quân, và "không
chịu chiến đấu". Cuộc tan hàng thê thảm vào ngày 30/4/75 càng khiến người
lính VNCH bị lăng nhục hơn nữạ. Kẻ thù, sau khi "lượm được chiến
thắng", đã tận dụng mọi phương tiện để trả thù, đày ải, hạ nhục những
người lính bại trận. "Bạn bè", khiếp sợ trước "chiến thắng thần
thánh"của đối phương, cũng để tự bào chữa cho sự hèn nhát và phản bội của
mình, tiếp tục trút mọi tội lỗi lên đầu những người lính đã bị bắt buộc phải
buông súng.
Đau đớn hơn nữa là sự phản bội của
một số những người chỉ huy cao cấp trong quân đội VNCH. Từ Nguyễn Hữu Hạnh,
Nguyễn văn Thiệu, nguyễn Cao Kỳ, cho đến gần đây nhất là Trần Văn Đôn. Chưa
hết, còn sự vô ơn và phản bội của một số người Việt cầm bút, ở trong và ngoài
nước, những người đã nhờ máu của người lính VNCH mà dược hưởng tự do trong hơn
20 năm để viết ra những gì họ nghĩ, cái tự do trong cái giới hạn trong một xã
hội chiến tranh nhưng ít nhất họ cũng không bị trở thành những con ngựa trong
chuồng như ở miền Bắc. Những nhà văn nầy đã và đang trả cái ơn ấy bằng cách
khai thác và phóng đại những khuyết điểm của người lính VNCH, hay vô liêm sĩ
hơn nữa, vu cáo những người chiến sĩ chính danh là những tên lính đánh thuê
khát máu, không nhân tính, không lý tưởng. Đâu là chân dung thực của người lính
VNCH ?
Năm 1984, trước bộ phim được gọi là
"tài liệu lịch sử" dài 13 giờ chiếu mang tên Vietnam: A Television History
(Việt Nam: Một Bộ sử Truyền Hình) nhưng là một sự lăng mạ lịch sử, ông James
Banerian đã viết một cuốn sách vạch trần những sai lầm ác ý của những người làm
phim. Cuốn sách của ông nhan đề là Losers Are Pirates (Thua là giặc), rút từ
câu tục ngữ Việt Nam "được làm vua, thua làm giặc". Cái tựa đề ấy đã
xác nhận thêm số phận bạc bẽo cay nghiệt của người lính thua trận, và là một
trong số hiếm hoi những tiếng nói lương thiện và trung thực trong "thế
giới tự do" đã đóng góp vào việc tái tạo lại chân dung thực của người lính
VNCH.
Cũng trong năm 1984, học giả Phạm
Kim Vinh viết cuốn "Thiên Anh Hùng Ca Viết Cho Quân Lực VNCH, dùng những
chất liệu lịch sử và những bài viết của các tác giả Tây phương lương thiện để
bẻ gãy những sự vu cáo, bác bỏ những lời buộc tội bất công, xoá tan những huyền
thoại, và phục hồi danh dự cho những người lính đã chiến đấu trong những điều
kiện khắc nghiệt suốt hơn 20 năm, đi qua một con đường dài lịch sử mà ông cho
là "kể về sự khắc khổ và chịu đựng còn vượt xa con đường Vạn Lý Trường
Chinh của Mao Trạch Đông, và về tính cách thiêng liêng, vị tha và cao quý còn
vượt xa các cuộc Thánh Chiến Thời Trung Cổ.
Chân dung người lính VNCH được phác
họa sống thực ngay ở bìa cuốn sách, với hình ảnh một người chiến binh gầy ốm,
gương mặt chĩu nặng ưu tư mệt mỏi, nhưng chân vẫn bước đi với hai ống quần xắn
lên tới đầu gối và cây súng thô sơ trên vai.
Qua gần 300 trang sách với thật
nhiều dẫn chứng cụ thể và những biện luận vững chắc, tác giả Phạm Kim Vinh đã
đưa người đọc đi lại con đường dài mà người lính VNCH đã đi, từ những ngày đầu
được khai sinh với nhiều bất hạnh, trưởng thành dần trong khói lửa với cuộc
chiến đấu dũng cảm trong sự thiệt thòi bất công vô lường, cho đến cái chết tức
tửi oan nghiệt vào ngày 30/4/75.
Ngay sau khi người lính VNCH buông
súng, trong đống sách báo phim ảnh trên thế giới nói về cuộc chiến VN cũng đã
có rải rác những cái nhìn công bằng hơn về những người lính thua trận, qua
những cuộc chiến đấu cuối cùng dũng cảm tuyệt vọng của họ.
Hai ngày sau khi Saigon sụp đổ,
Peter Kanh, nhà báo Mỹ đoạt giải Pulitzer, đã viết một bài bình luận dài trên
tờ Wall Street Journal (2/5/75) tựa đề "Truy điệu Nam Việt Nam",
trong đó có đoạn viết về Quân Lực VNCH như sau :
"...Nam Việt Nam đã chống cự
hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi
nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậỵ.
Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng
ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở
nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm
và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo
lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ...
Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy
đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương...Và trong những
tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì
vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc.
Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an
toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của
người ta . Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn".
Không phải đợi tới ngày nay, 40 năm
sau, người ta mới khẳng định được rằng, "phía mạnh hơn không phải là phía
tốt". Phía tốt hơn đã trở thành phía yếu hơn và đã bị đánh bại trên chiến
trường chỉ vì đã trở thành nạn nhân của sự hèn nhát và phản bộị Người lính VN
đã chiến đấu cho tự do đã bị trói tay buộc chân, cắt giảm viện trợ vào lúc hiểm
nghèo nhất.
Trong cuốn "Not with guns
alone", nhà báo lão thành người Úc Denis Warner đã lên án Quốc Hội Mỹ cắt
giảm viện trợ quân sự cho VNCH vào lúc cần phải gia tăng. Ông cho biết cả một
tiểu đoàn QLVNCH bị tiêu diệt trong một trận đánh ở miền Tây sau khi bắn hết
viên đạn cuối cùng.
Ở miền Trung, mỗi khẩu đại bác
chỉ còn được cấp 4 viên đạn mỗi ngày, trong khi Cộng quân có khả năng nã vào
các căn cứ quân sự miền Nam hàng ngàn quả đại pháo mỗi đêm.
Tác giả Mỹ Louis Ạ Fanning cũng viết
như sau trong cuốn "Sự phản bội tại VN" (Betrayal in Vietnam):
"Trong khi quân lính Bắc Việt được tăng cường chiến cụ thì quân đội Nam
Việt Nam lại bị cắt giảm thật nhiềụ Trước kia, mỗi khinh binh đi hành quân tuần
tiễu được phát mười trái lựu đạn, nay chỉ còn được phát có một trái".
Những kẻ trói tay buộc chân người
lính VNCH cũng chính là những kẻ đã kết tội người lính ấy "không chịu
chiến đấu" trong khi cả "thế giới tự do" không hề có một lời lên
án việc CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris 1973, chiếm đoạt miền Nam bằng võ lực. Sự hèn
nhát nầy đã bị nhà văn Nga lưu vong Solzhenitsyn coi là một sự vô đạo, vì ý chí
tự vệ của phân nửa Âu Châu và ở 3/4 thế giới còn thua xa ý chí chiến đấu tự vệ
của Nam Việt Nam, phần đất đã bị bỏ rơi với lời biện hộ "không thể bảo vệ
những người không có ý chí để tự bảo vệ!"
Sự hèn nhát và vô đạo ấy đã làm thức
tỉnh lương tâm một số người từng góp phần cổ võ cho CSBV xâm chiếm miền Nam,
khi họ chứng kiến những trận đánh cuối cùng của một số đơn vị QLVNCH. Trong số
nầy có 3 nhà báo Pháp Jean Larteguy, Jean Lacouture và Pierre Darcourt. Ba nhà
báo nầy đã có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Saigon, có lẽ chờ
đợi đón mừng "bộ đội giải phóng" để chứng kiến cái chết ô nhục của
quân đội miền Nam mà họ đã phỉ báng trong suốt bao nhiêu năm. Nhưng sau khi chiến
tranh chấm dứt, họ trở về Pháp, và đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những
gì họ viết ra.
Jean Larteguy ghi lại như sau khi
tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Sài Gòn:
"Thứ Hai 28/4/75.
Saigon sáng nay yên tĩnh.
Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm
đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong các khu vườn. Họ không
buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt.
Đôi lúc họ còn cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Cola. Họ không
nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầy.
Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn
mình trong những đổ nát của Saigon.
Và những binh sĩ tuyệt vời nầy vẫn
còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi
hỏi ông ta xem tình hình ra sao.
Ông trả lời:
- Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng
tôi sẽ là những người chót chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi
chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.
Sau khi Dương văn Minh đã tuyên bố
đã đầu hàng. Lartéguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các
đơn vị QDVNCH tại Saigon, và ghi lại như sau:
"Gần Lăng Cha Cả, quân Dù
đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy
của họ từ Dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ
quan nầy khuyên họ nên ngưng chiến đấụ. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe
ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để
lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc
người chết".
Lartéguy cũng được thấy tận mắt các
sinh viên Trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận
địa. "Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh
viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Chỉ còn thiếu có cái
mũ diễn hành và đôi bao tay trắng"
Một đồng nghiệp của Lartéguy là
Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố
nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan:
- Các anh có biết là sắp bị giết
chết không?
Một thiếu úy trả lời:
- Chúng tôi biết chứ.
- Vì sao?
- Tại vì chúng tôi không chấp nhận
chủ nghĩa cộng sản.
"...Các xe tăng đầu tiên của
cộng sản vào Saigon từ phía Đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòạ.. Bộ binh thì
tiến từ phía Bến cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn nầy chỉ tới được trung tâm
Saigon vào lúc 5 giờ chiềụ .Từ ngày hôm trước, các đơn vị cộng quân nầy dã bị
chặn tại gần Hốc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của
sư đoàn Dù trấn giữ, dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong
trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị cộng quân bị thiệt hại
nhiềụ. Sau đó, chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon : một lần
trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ; nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh
liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng cộng sản đè bẹp; lần thứ hai ở ngã
tư Hồng Thập Tự và Lê văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính dù võ trang
đại liên và bazooka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra
ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát
Đến chiều tối, 400 chiến sĩ Mũ Đỏ
(Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và
còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10
giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng
đêm để rút về đồng bằng."
Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở
lại vị trí và tự sát.
Hai cái chết hào hùng khí phách của
2 vị tướng ưu tú của QLVNCH cũng được các nhà báo quốc tế chân chính thuật lại.
Nhà báo lão thành người Úc Denis
Warner viết về cái chết của tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lịnh sư đoàn 5, như sau:
"...Trong buổi sáng ngày
30/4/75, sư đoàn 5 mất liê lạc với quân khu III tại Long Bình. Tư lệnh sư đoàn
5 là tướng Lê Nguyên Vỹ quyết định dùng mọi thứ xe cơ giới để tiến về Saigon.
Toàn thể quân đoàn I của CS chận đánh đoàn xe của tướng Vỹ. Bị yếu thế về mọi
mặt, đoàn xe ấy bị tiêu diệt. Tướng Vỹ hiên ngang tự sát".
Về cái chết của tướng Nguyễn Khoa
Nam, tư lệnh quân đoàn 4, ký giả Mỳ Alan Daeson thuật lại:
"...Tại Cần Thơ, tướng 3 sao
Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh vùng 4 và đồng bằng Cửu Long, rốt cuộc đành chịu nhận
là cuộc chiến đã hết, khi ông ta nghe thấy tướng Minh nói trên đài phát thanh.
Là một trong các tướng lãnh cương quyết ở lại, tướng Nam đã chiến đấu cho đến
phút chót...Ông ra lệnh cho các sĩ quan tham mưu của ông không được rời bản
doanh.
Ông ta còn đích thân đi quan sát
tiền tuyến nữạ. Ông ta đã bắn viên tỉnh trưởng Sa đéc ở ngay phía đông Cần Thơ,
vì kẻ ấy nhất định đòi đi theo người Mỹ chạy trốn. Khi viên tỉnh trưởng Kiên
Giang trái lệnh của tướng nam, và dùng tàu rời khỏi Rạch Giá để đi về phía Nam
thì tướng Nam cho 3 chiếc trực thăng võ trang đuổi theo, rồi bắn chìm chiếc tàu
ấy bằng đại liên và hỏa tiễn.
Tướng Nam chẳng có gì để phải hổ
thẹn khi chiến đấu những ngày chót của một chiến binh. Ông đã thật sự dâng cuộc
đời mình cho cuộc chiến đấu ấỵ Trong vòng 30 phút, sau khi tướng Minh ra lệnh
đầu hàng trên đài phát thanh, tướng Nam kề khẩu súng lục cỡ 45 vào mồm rồi bóp
cò. Ông ta chết ngay tại chỗ."
Những trận đánh dũng cảm và những
cái chết anh hùng trên đây là đoạn kết của một cuộc chiến bi tráng kéo dài trên
20 năm, trong dó theo viên tướng Pháp Vanuxem thì cứ mỗi 8 phút lại có một
người lính VNCH hy sinh. Nhờ sự hy sinh ấy mà hơn 20 triệu người dân miền Nam
được sống tự do trong 1/4 thế kỷ. Bao nhiêu cuộc đời êm ấm đã trôi qua trong
thời gian ấy, bao nhiêu công danh sự nghiệp đã được "những con người may
mắn" thủ đắc.
Và đây là cái "phần
thưởng" mà xã hội miền Nam ngày trước đã đền đáp cho sự hy sinh của người
lính sau mỗi cuộc hành quân, qua ngòi bút của Phan Nhật Nam:
"Người chồng không chết, và sẽ
trở về. Người lính bơ phờ, gầy guộc, ngồi đếm đi đếm lại những tờ giấy bạc bằng
những ngón tay cáu ghét, mơ ước bỗng nhiên xấp bạc trở thành nhiều hơn, một
giấc mơ nhẹ nhàng, quên được cảnh đời với đôi chân lội ngập trong bùn, những tờ
bạc có được sau 30 ngày đo chân bờ ruộng, trong rừng sâu, trên những cồn cát,
30 đêm ngủ võng, nằm hầm, mắt mở lớn sau một lớp cỏ ướt sương, và toàn thân
ngâm chặt dưới nước bùn lạnh giá. Những tờ bạc chỉ đủ mua một phần gạo cho một
người đàn bà và 4 đứa con trong tháng".
Đó là người lính không chết. Nếu
người lính chết, thì đây là thân phận vợ con người lính:
"Người lính chết, chết là hết,
nhưng không bao giờ hết cho người vợ lính. Không hết cho một chuỗi ngày tháng
dài đăng đẵng sau lưng, cùng với một lũ con nheo nhóc; những đứa bé sẽ lang
thang trên các đống rác chất ngất được đổ từ những chiếc xe nhà binh Mỹ; thằng
bé sẽ mặt cái áo dài của bố nó, dài đến tận đầu gối, tóc rối, mắt khô, chân tay
là những rễ cây khẳng khiụ.. Những người vợ lính, và đứa con lính sẽ dự phần
vào cuộc đua khốn nạn, dấu chân trần sẽ vượt thật nhanh trên những chiếc hộp
sắt bóng loáng, hay sét rỉ..."
Cuộc chơi rõ rệt không công bằng,
nhưng nguời lính VNCH vẫn miệt mài chiến đấu và hy sinh. Cho đến khi hoàn toàn
bị trói tay. Cuộc chơi tàn. Nhưng người lành lặn bị lùa vào các trại cải tạọ.
Đui, què, mẻ sứt...không còn được ai nhắc tới, biết tới. Những người chết không
yên, mồ mả bị đào xới lăng nhục.
Bốn mươi cái 30/4 đã trôi qua, hào
quang của những kẻ đã chiến thắng nhờ sức mạnh súng đạn ngoại bang đã tắt lịm
trong cái xã hội cực kỳ thối nát. Bao giờ lương tâm mới thức tỉnh trong những
con người vẫn còn muốn ném bùn vào nét chân dung của người lính VNCH?
Tác giả: Sơn Tùng
No comments:
Post a Comment