Chết Không
Nhắm Mắt
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
27/07/2020
Mắt người chết trừng trừng không chịu nhắm (Nguyễn Duy)
Tôi tình cờ “nhặt” trên FB một tác phẩm khá độc đáo của Marc Riboud. Ông “chớp” được cảnh một anh bộ đội (với con búp bê nằm dưới nắp ba lô, và cái sắc cầm tay) đang trên đường trở về quê cũ.
Cùng với bức ảnh là
lời bình, cũng độc đáo không kém, của face booker Nguyễn Hoàng :
“Thằng này coi vậy mà hiền, chỉ lấy con búp bê cho con và cái bóp đầm cho vợ mà
thôi.”
Thằng chả hiền thiệt
chớ. Cái ba lô xẹp lép hà. Ngó thấy mà thương. Là kẻ cầm súng, thuộc phe thắng
trận, đương sự có thể thu góp được chiến lợi phẩm nhiều hơn thế.
Bên thua cuộc, rõ
ràng, không mất mát chi nhiều mà Bắc/Nam đã được “nối vòng tay lớn” – theo như
cách nói của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Rồi ra, tác giả còn dự tưởng, sẽ có những
đoàn tầu thống nhất “toả khói trắng hai bên đường,” những đám “trẻ thơ đi hát
đồng dao” khắp ngõ, và “mọi người ra phố mời rao nụ cười.”
Họ Trịnh, có lẽ, thực
lòng tin tưởng như thế. Niềm tin của ông cũng được không ít người đồng thời
chia sẻ. Sự thực, tiếc thay, khác thế. Sau ngày “Nam/Bắc hoà lời ca” thì nụ
cười gần như biến mất trên môi của mọi người dân Việt.
Dù thuộc bên thắng cuộc, những bộ đội phục viên cũng không hề được hân hoan cười đón khi họ trở về:
Dù thuộc bên thắng cuộc, những bộ đội phục viên cũng không hề được hân hoan cười đón khi họ trở về:
“Tôi đã được chứng
kiến cảnh hẫng hụt của nhiều người khi họ … ngơ ngác tìm kế sinh nhai, đã không
ít người đòi đảng, chính quyền cơ sở phải chia ruộng đất cho họ, và tất nhiên
đảng, chính quyền không thể moi đâu ra ruộng đất để cho họ cày, cực chẳng đã,
nhiều người đã trực tiếp đòi ruộng cha ông mà ngày trước họ đã góp vào hợp tác
xã, không ít người đã tự ý đi cày ruộng cha ông của mình, thế là … họ được quy
là công thần, gây rối, chống lại đường lối của đảng, nhà nước, kết cục có người
bị đuổi ra khỏi đảng, có người bị bị bắt lên xã, lên huyện tạm giam để xử lý vì
đã ngang nhiên lấn chiếm đất đai của nhà nước đã giao cho người khác.” (Vi Đức
Hồi – Đối Mặt,
Chương II).
Đoạn hồi ký thượng dẫn
giúp cho độc giả hiểu tại sao vỉa hè Hà Nội lại đông đảo những người làm nghề
cửu vạn. Họ sống ra sao?
“Mỗi tối thuê cái
chiếu nằm gầm cầu, có tiền bạc của nả thì gối đầu, giắt lên ngực. Bốn bên lủng
củng người nằm, nói anh bỏ lỗi, nó đéo nhau huỳnh huỵch rồi lại chửi nhau, quát
nhau to tiếng hơn ô tô chạy ngoài đường.” (Tô Hoài. Chiều
Chiều. Phương Nam, Hà Nội: 2014).
Giữa Thủ Đô Của Lương
Tâm Nhân Loại mà trải chiếu “đéo nhau huỳnh huỵch” thì (ngó) cũng hơi khó coi.
Tuy thế – và được thế – vẫn hơn hẳn nhiều bạn đồng đội (không may) khác, đang “nạng gỗ khua rỗ
mặt đường làng.”
Hạnh phúc hay đau khổ (nghĩ cho cùng) chỉ là sự so chiếu, và mọi so chiếu đều tương đối cả. Nói chi đến những người lính vô danh, ngay cả một nhân vật tiếng tăm cỡ như thi sĩ Tế Hanh (“từng là ủy viên ban chấp hành hoặc thường vụ Hội Nhà Văn VN, từng mười năm liền phụ trách đối ngoại của hội, từng có chân trong ban phụ trách nhà xuất bản Văn học”) đến cuối đời cũng đành chép miệng: “Trải qua hai cuộc chiến tranh mình còn được sống, được làm thơ, còn may mắn hơn khối người khác, thế là được rồi.” (Vương Trí Nhàn. Cây Bút Đời Người. Phương Nam, Hà Nội: 2002).
Hạnh phúc hay đau khổ (nghĩ cho cùng) chỉ là sự so chiếu, và mọi so chiếu đều tương đối cả. Nói chi đến những người lính vô danh, ngay cả một nhân vật tiếng tăm cỡ như thi sĩ Tế Hanh (“từng là ủy viên ban chấp hành hoặc thường vụ Hội Nhà Văn VN, từng mười năm liền phụ trách đối ngoại của hội, từng có chân trong ban phụ trách nhà xuất bản Văn học”) đến cuối đời cũng đành chép miệng: “Trải qua hai cuộc chiến tranh mình còn được sống, được làm thơ, còn may mắn hơn khối người khác, thế là được rồi.” (Vương Trí Nhàn. Cây Bút Đời Người. Phương Nam, Hà Nội: 2002).
Vâng, đúng thế. Còn
sống là “may mắn hơn khối người” rồi!
Theo thống kê (chắc
không khả xác) của Tổng Cục Chính Trị thì
đến năm 2012, toàn quốc chỉ có 1.146.250 liệt sĩ và khoảng 600.000 thương binh,
trong đó có 849.018 liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Wikipedia tiếng
Việt cho biết thêm:
“Từ tháng 12 năm 1994
đến hết năm 2001, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng và
truy tặng danh hiệu cao quý cho 44.253 Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng.”
Có bà bị lọt sổ vì
không đủ “kiên trinh” nên đã (lỡ) đi thêm bước nữa – theo như tường trình
của Tuổi Trẻ Online:
“Chúng tôi đến khi bà
Trần Thị M. đang ăn tối ngay trên giường. Bà đã ở trên giường như vậy gần ba
năm rồi, kể từ khi đôi chân không còn tự đứng lên được nữa. Ấy thế nhưng khi
hỏi đến chuyện xưa, đôi mắt bà sáng lên.
Bà say sưa kể về những
ngày hoạt động cách mạng, những ngày tù ngục đòn roi tra tấn, thương tích tới
75% (thương binh hạng 2/4)… Vượt qua được hết, chỉ không chịu nổi mỗi lúc nghe
tin chồng, tin con thôi” – bà chợt trầm giọng. Ba lần ‘không chịu nổi’ ấy là
vào năm 1962, ông Võ Mười, chồng bà, hi sinh khi bà mới 30 tuổi; năm 1964, con
trai út Võ Danh của bà bị bắn chết khi vừa 6 tuổi, đang được giao việc cảnh
giới cho các chú cán bộ họp; năm 1971, con trai lớn Võ Thái làm giao liên cho
ban binh vận Khu ủy Khu V hi sinh ở tuổi 16.
Còn lại một mình giữa
đạn bom, hai lần bị bắt, giam cầm tra khảo ở nhà lao Quảng Ngãi, năm 1974 bà gá
nghĩa với một người đồng đội, ông Thái Văn Thới. Chiến tranh vẫn ác liệt, đâu
biết mai này sống chết thế nào. Thương nhau, thông cảm hoàn cảnh của nhau thì
về với nhau thôi” – bà kể. Ngày 21-2-2014, UBND P.12, Q.Bình Thạnh đã tổ chức
cuộc họp để xét duyệt và đề nghị Nhà nước tặng danh hiệu Bà mẹ VN anh hùng cho
bà. Phường đã có tờ trình về trường hợp của bà gửi Phòng Lao động – thương binh
và xã hội (LĐ-TB&XH) Q.Bình Thạnh, Sở LĐ-TB&XH TP.HCM. Tuy nhiên, sau
đó gia đình bà nhận được thông báo bà chưa được lập hồ sơ đề nghị phong tặng
danh hiệu Bà mẹ VN anh hùng do đã… tái giá.”
Phải chi cái hồi giao
“công tác cách mạng” cho hai đứa nhỏ (6 tuổi và 16 tuổi) mà Nhà Nước cũng xét
(nét) kỹ càng như vậy thì đỡ cho mẹ Trần Thị M. biết mấy. Dù sao, vẫn còn có
điều an ủi là nhờ đang sống ở thành phố mang tên Bác nên tờ trình về trường hợp
của bà cũng đã được gửi tới Sở LĐ -TB&XH TP.HCM và đã được cứu xét (rồi) từ
chối!
Có mẹ không nhận được danh hiệu anh hùng chỉ vì lỡ “chui rúc” ở những nơi hoang vu quá. Bên Kia Đèo Bá Thở là một nơi như thế:
Có mẹ không nhận được danh hiệu anh hùng chỉ vì lỡ “chui rúc” ở những nơi hoang vu quá. Bên Kia Đèo Bá Thở là một nơi như thế:
“Trên bản đồ quân sự
cũng như bản đồ của nha Địa Dư không bao giờ có địa danh ‘Đèo Bá Thở’. Bởi vì
đặt cái tên cho ngọn đèo này chính là tôi và một vài người bạn… Ngọn đồi nằm
không xa trại giam chúng tôi trong tỉnh Yên Bái. Ngày ngày đội chúng tôi có
mười anh em phải băng qua bên kia cái đèo khốn nạn này, tới một khu rừng toàn
thị là tre, nưá, giang…”
“Mấy ngày đầu chúng tôi không chú ý tới cuối dốc bên kia có một cái nhà tranh đã sập. Người chủ căn nhà lấy vài thân tre to, chống cái mái lên, nên mái nhà chạm đất. Tất nhiên trong tình trạng đó nó không có cửa. Chúng tôi đã vài lần đi về ngang đó và tưởng nó đã bỏ hoang, bởi vì trông nó còn thua một cái chòi chăn vịt ở miền Nam.”
“Mấy ngày đầu chúng tôi không chú ý tới cuối dốc bên kia có một cái nhà tranh đã sập. Người chủ căn nhà lấy vài thân tre to, chống cái mái lên, nên mái nhà chạm đất. Tất nhiên trong tình trạng đó nó không có cửa. Chúng tôi đã vài lần đi về ngang đó và tưởng nó đã bỏ hoang, bởi vì trông nó còn thua một cái chòi chăn vịt ở miền Nam.”
“Một hôm cả bọn chúng
tôi thấy trời còn sớm, nên nghỉ lại bên kia dốc một lát trước khi ‘bá thở’.
Chúng tôi nghe lục đục trong cái chòi bỏ hoang, và phát giác đuợc một cụ già
thật già. Nét mặt bà cụ nhăn nheo hệt như những vết nẻ của ruộng bị hạn hán
nhiều ngày. Bà già có một cặp mắt nâu đục, lờ đờ và đầy rỉ mắt. Bà già mặc một
cái áo bông vá chằng vá đụp. Phải gọi đây là cái áo vá trên những miếng vá. Nó
nặng dễ chừng đến năm ký chứ không chơi. Chúng tôi gạ chuyện, song tất nhiên bà
già biết chúng tôi là tù ‘Ngụy’ nên không hé răng một nửa lời”.
“Hôm sau trong lúc đốn
tre chúng tôi hội ý. Chúng tôi lấy dư ra mỗi ngày vài cây về dấu ở gần căn lều
của bà cụ. Được vài ngày đủ tre để dựng lại căn lều, chúng tôi để hai người lại
sửa còn tám người vào rừng đốn tre cho đủ số lượng của mười người. Chúng tôi
cũng cắt tranh về để dậm lại những chỗ quá mục nát. Căn nhà sửa xong, có cửa để
chui ra chui vào. Bà già khi đó tự động nói chuyện với tụi tôi:
– Lão có ba đứa con,
một đứa đã có giấy tử sĩ, hai đưa kia thì hoà bình lâu rồi, nhưng lão không hề
nhận được một chữ của chúng từ ngày chúng đi. Lão mới có giấy mẹ liệt sĩ, mỗi
tháng có tiền nhưng chả vào đâu.” (Hoàng Khởi Phong. “Bên Kia Đèo Bá
Thở.” Cây Tùng Trước Bão. Thời Văn, Hoa Kỳ: 2001).
Bà lão hẳn đã qua đời
từ lâu. Những người lính thắng trận trên đường về quê (với con búp bê cầm tay)
hơn 40 năm trước e cũng không còn mấy ai sống sót. Đám mẹ ngụy và lũ con thua
cuộc cũng thế, cũng đều đã lần lượt đi vào lòng đất.
Kẻ Bắc/người Nam, bên
thua/bên thắng nên họ đã phải trải qua những hoàn cảnh và kinh nghiệm sống khác
nhau. Duy có điều này thì chắc chắc là hoàn toàn không khác: khi họ chết không
ai nhắm mắt!
No comments:
Post a Comment