Thursday, August 13, 2020

Bí ẩn 30.4.1975 - Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy


Bí ẩn 30.4.1975
Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy

1) Mở đầu Đối với đa số ngƣời Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thƣơng nhứt của một đời ngƣời. Cố Giáo Sƣ Nguyễn Ngọc Huy - một bình luận gia am tƣờng mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ - đã đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên. Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi đƣợc tiếp xúc với Giáo sƣ Huy và đã may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận đƣợc những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sƣ Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sƣ Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sƣ để nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy đƣợc tầm kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sƣ Huy mà hiếm ai cùng thời có đƣợc (xin xem thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới. 2) Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975? Câu hỏi lịch sử này cũng đã đƣợc bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua và chƣa đi đến một kết luận nào hữu lý để đƣợc mọi khuynh hƣớng chấp thuận. Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng nhƣ cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trƣởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trƣởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung... cũng 2 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net không đƣa ra đƣợc câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975? Nhìn trở lại, ngƣời ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hƣớng, từ chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sƣ Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sƣ Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và đƣợc Giáo sƣ Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bƣớc rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi ngƣời đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãn tình thế. Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sƣ Huy cho biết trên chính trƣờng Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái. - Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Ngƣời Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống. - Bên cạnh đó Cộng Đồng Ngƣời Mỹ gốc Do Thái chủ trƣơng nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nƣớc Hoa Kỳ. Họ gài đƣợc nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng nhƣ lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt nhƣ ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thƣờng thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trƣởng cũng do ngƣời Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thƣợng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Ngƣời Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái. Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sƣ Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cƣơng quyết muốn thỏa hiệp riêng ("đi đêm"!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Nhƣ vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trƣơng của thế lực Do Thái. 3 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Ngƣời Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với tổng số 13,1 triệu ngƣời, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này đƣợc điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (- World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sƣ Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết đƣợc dân gốc Do Thái đặc biệt thƣờng với mũi to loại diều hâu, điển hình nhƣ Ngoại trƣởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trƣởng Albright. Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sƣ Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 - 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trƣơng Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dƣ luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!). Nhƣ vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó đƣợc thực hiện qua Kissinger. 3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam? a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi đƣợc Giáo sƣ Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của ngƣời Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trƣờng Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sƣ Huy hoàn toàn đúng. Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Irish_ Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây nhƣ Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan) Cũng nhƣ hiện nay tại quốc hội có 15 Thƣợng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website 4 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_ American_ politicians#List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài đƣợc những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây nhƣ: - trong Thƣợng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!). - trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trƣởng Henry Kissinger dƣới thời TT Nixon và Bộ trƣởng Madeleine Albright dƣới thời TT Clinton... - trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trƣởng James Schlesinger dƣới thời TT Nixon và thời TT Ford. - trong Bộ Tài Chánh có Bộ trƣởng Larry Summer và Bộ trƣởng Robert Rubin dƣới thời TT Clinton. - trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dƣới thời TT Reagan. - trong Ngân Hàng Trung Ƣơng (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sƣ Ben Bernanke từ 2006 đến nay. Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trƣờng chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh... Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt nhƣ Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford... (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ entertainers). Họ biết rõ rằng nắm đƣợc truyền thông trong tay là hƣớng dẫn đƣợc dƣ luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lƣợc nhằm đƣa ra những đề nghị cho chính sách tƣơng lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của ngƣời Do Thái. Ngoài ra tại các cƣờng quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hƣởng tuy âm thầm nhƣng cũng mạnh mẽ lắm. Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy (Pháp) & Thủ Tƣớng Đức Schmidt (Đức) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông. Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hƣởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cƣờng quốc Âu Mỹ. 5 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam? Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nƣớc và dựng lại nƣớc của ngƣời Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nƣớc và phải lƣu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nƣớc đó thƣờng đƣợc dƣ luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một ngƣời Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bƣớc đƣờng lƣu vong. Nhƣng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dƣới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hƣơng Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nƣớc vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lƣu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này. Nhƣ vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm "lá bùa hộ mạng". Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh nhƣ Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan... , nhƣng luôn luôn "sống chết" hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lƣợc cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lƣợng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ đƣợc các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không đƣợc đi trái ngƣợc lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái. Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trƣờng Việt Nam có thể đƣa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nƣớc Do Thái tồn tại nhƣ trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trƣơng Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bƣớc một. 6 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam. Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhƣợng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 - 1986) là một nhà tƣ bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhƣợng bộ rút lui này đã khiến lực lƣợng CSVN kiểm soát đƣợc phần lớn các địa điểm chiến lƣợc tại Lào và thiết lập đƣờng mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975. Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mƣu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hƣởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dƣ luận quần chúng. Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ... bắt đầu gây tử thƣơng nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan!) của chiến tranh đƣợc hệ thống truyền thông Hoa Kỳ - đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chƣa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác. Tƣớng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trƣởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lƣợng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tƣớng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này đƣợc (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy!). Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng đƣợc thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tƣớng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam! 7 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines - South Vietnam 1966 Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài đƣợc Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhƣng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và đƣợc trọng dụng làm Cố vấn An ninh. Thế lực Do Thái còn đƣa đƣợc thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trƣởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 - 1999)... Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mƣu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chƣơng trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bƣớc giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam. Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đƣa đến thỏa hiệp Thƣợng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nƣớc Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trƣờng thế giới, nhƣng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng. Quả nhiên, chỉ sau đó chƣa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ đƣợc an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dƣ luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mƣu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống nhƣ tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam. Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon nhƣ sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tƣơng tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng”. 8 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng nhƣ tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái. Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trƣớc đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhƣng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục đƣợc Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tƣớng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trƣởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận. 4) Kết luận Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trƣờng Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận nhƣ trƣớc đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam. Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam đƣợc che dấu tinh vi không đƣa ra dƣ luận nổi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hƣởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái (Anti-Semitism). Cho nên đến 35 năm sau dƣ luận vẫn còn bị xí gạt. Điển hình, về phía dƣ luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả (thí dụ: Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam (chịu thua!) vì đang câu con cá to hơn (“has bigger fish to fry”). Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kissinger bƣớc vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Về phía Cộng Sản Bắc Việt, ngoại trừ lợi thế sẵn có của đƣờng lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển ngƣời hy sinh "nướng quân" hàng loạt trên chiến trƣờng (theo nhận xét của Tướng Westmoreland!), họ không ngờ có đƣợc sự giúp đỡ hữu hiệu của 9 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đƣa tới tình trạng "Đồng Minh tháo chạy" (từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức!) bỏ rơi VNCH. Thực tế, nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chƣa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận. Nhƣ vậy miền Nam chỉ cần cầm cự đƣợc vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cƣơng quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ đƣợc yểm trợ đầy đủ (đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hãn!) để không thể dễ dàng rơi vào tay cộng sản nhƣ đã xảy ra trong ngày 30.4.1975. Đa số ngƣời Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái (một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh "Về miền đất hứa / Exodus" của tác giả Leon Uris) vì ngƣỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lƣu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trƣớc mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó, Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm "Bài học Israel (Do Thái)" . Nhƣng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc, nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sƣ Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mƣu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hƣơng Việt Nam và dẫn tới hiểm họa mất nƣớc vào tay Trung Cộng. Chúng tôi tin rằng Giáo sƣ Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bƣớc tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tƣơng lai sẽ đƣợc giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị sai lầm nữa. Mong thay! Phạm Trần Hoàng Việt (Tháng Tư Đen 2010) 10 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net Phụ đính Tiểu Sử Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy Sanh vào ngày 2 tháng 11 năm 1924, quê tại Mỹ Lộc, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Văn bằng: § 1963: Tiến Sĩ Chánh Trị Học, Trƣờng Đại Học Luật Khoa & Kinh Tế Paris. Luận án: “Đề tài ngƣời ƣu tú trong tƣ tƣởng chánh trị Trung Quốc cổ thời” § 1960: Cao Học Chánh Trị, Trƣờng Đại Học Luật Khoa & Kinh Tế Paris. § 1959: Cử Nhơn Luật Khoa và Kinh Tế, Viện Đại Học Paris. § Tốt nghiệp Viện Nghiên Cứu Chánh Trị Đại Học Paris. § Tự học thi đậu bằng Tú Tàị. § Học sinh trƣờng Pétrus Trƣơng Vĩnh Ký, thi đậu bằng Trung Học. Một trong học sinh đậu xuất sắc nhứt tại Đông Dƣơng (xem phim tài liệu về Thân Thế & Sự Nghiệp Giáo sƣ Nguyễn Ngọc Huy / Câu Lạc Bộ Đằng Phƣơng thực hiện năm 2007). Chức vụ: Trong Ngành Giảng Huấn: § Từ 1976: Phụ Khảo tại Trƣờng Đại Học Luật Khoa Harvard (Hoa Kỳ). § 1965-1975: Giáo Sƣ Chánh Trị Học và Luật Hiến Pháp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh tại Sài Gòn, Trƣờng Đại Học Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội tại Cần Thơ, Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm tại Sài Gòn, Trƣờng Đại Học Luật Khoa tại Huế. Ngoài ra còn giảng dạy tại các Trƣờng Đại Học Đà Lạt, Vạn Hạnh, Minh Đức, Minh Trí... và ở Trƣờng Cao Đẳng Quốc Phòng, Trƣờng Chỉ Huy Tham Mƣu Cao Cấp, Trƣờng Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị. § 1967-1968: Khoa Trƣởng Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội tại Cần Thơ. Trong Chánh Quyền: § 1973 và 1968-1970: Nhơn viên phái đoàn tham dự thƣơng thuyết Hòa Đàm Paris. § 1967: Hội Viên Hội Đồng Dân Quân. § 1964: Đổng Lý Văn Phòng Phủ Phó Thủ Tƣớng Đặc Trách Bình Định. Hoạt Động Chánh Trị: § Từ 1986: Hội Viên Ủy Ban Danh Dự của Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ VN Tự Dọ § Từ 1981: Chủ Tịch Ủy Ban Chấp Hành Trung Ƣơng Liên Minh Dân Chủ Việt Nam. § 1973-1975: Đồng Chủ Tịch Liên Minh Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội (gồm 6 đảng). 11 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net § 1969-1975: Tổng Thơ Ký Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến. § 1964-1990: Thành lập đảng Tân Đại Việt và là lãnh đạo đảng cho đến năm 1990. § 1945-1964: Đảng viên Đại Việt Quốc Dân Đảng và tham dự Ủy Ban Chấp Hành Trung Ƣơng năm 1948. Tưởng Lục: § WHO'S WHO đông bộ Hoa Kỳ, ấn bản lần thứ 18, 1981-1982. § Giải thƣởng của Viện Đại Học Paris trao luận án Tiến sĩ xuất sắc nhất trong năm. Chuyên Môn: § Luật Hiến Pháp, Tƣ Tƣởng Chánh Trị, Định Chế Chánh Trị, Bang Giao Quốc Tế. § Thông thạo ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh và Hán văn. Tác phẩm : § Tiếng Việt: 1. HỒN VIỆT, thơ, Sài Gòn, 1950, tái bản ở Paris năm 1984. 2. QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT (Quyển A), Việt Publisher, Canada, 1990. 3. DÂN TỘC SINH TỒN, chủ thuyết của Đại Việt Quốc Dân Đảng, đƣợc bổ túc, phong phú hóa và thâu nhận các nguyên tắc tự do dân chủ, (2 quyển), Sài Gòn, 1964. 4. DÂN TỘC HAY GIAI CẤP ? 5. BIỆN CHỨNG DUY XẠO LUẬN (Trào phúng). 6. CÁC ẨN SỐ CHÁNH TRỊ TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG, Thanh Phƣơng Thƣ Quán, San Jose, Hoa Kỳ, 1986. 7. HÀN PHI TỬ: bản dịch ra Việt ngữ tác phẩm của Hàn Phi, nhà lý thuyết trứ danh của học phái Pháp Gia Trung Quốc, (2 quyển), Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1974. 8. LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT CHÁNH TRỊ, Cấp Tiến, Sài Gòn, 1970- 1971. 9. ĐỀ TÀI NGƢỜI ƢU TÚ TRONG TƢ TƢỞNG CHÁNH TRỊ TRUNG QUỐC CỔ THỜI, bản dịch Luận án Tiến sĩ viết bằng tiếng Pháp, Cấp Tiến, Sài Gòn, 1969. 10. Tên Họ Ngƣời Việt Nam . Mekong-Tỳnạn, California, USA - Cùng viết với Gs Trần Minh Xuân (2 cuốn 11 và 12 trong danh sách này): 11. Hiệu đính và chú thích LỤC SÚC TRANH CÔNG. Đi tìm tác giả và dụng ý chánh trị trong tác phẩm. Mekong-Tỳnạn, California, USA, 1991. 12 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net 12. HỒ CHÍ MINH: TỘI PHẠM NHƠN QUYỀN VIỆT NAM. Mekong-Tỳnạn, USA, 1992. § Tiếng Pháp: 13. POUR UNE NOUVELLE STRATÉGIE DE DÉFENSE DU MONDE LIBRE CONTRE L'EXPANSION COMMUNISTE, Alliance Pour La Démocratie Au Vietnam, Paris, 1985. § Tiếng Anh: 14. THE LÊ CODE: LAW IN TRADITIONAL VIETNAM, bản dịch ra tiếng Anh và chú thích bộ QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT, tục danh LUẬT HỒNG ĐỨC của nhà Lê (1428-1788), Ohio University Press, Hoa Kỳ, 1987 - cùng viết với Gs Tạ Văn Tài và Gs Trần Văn Liêm - 15. A NEW STRATEGY TO DEFEND THE FREE WORLD AGAINST COMMUNIST EXPANSION, Alliance For Democracy In Vietnam, 1985. 16. PERESTROIKA OR THE REVENGE OF MARXISM OVER LENINISM, Việt Publisher, Canada, 1990. Cùng viết với Gs Stephen B. Young (2 cuốn 17 và 18 trong danh sách này) 17. UNDERSTANDING VIETNAM, do T.D.T. Thomason xuất bản, The Displaced Persons Center Information Service, Bussum, The Netherlands. 18. THE TRADITION OF HUMAN RIGHTS IN CHINA AND VIETNAM, Yale Southeast Asia Studies, The LẠC VIỆT Series, New Haven, CT, USA, 1990. Bài Đăng Báo: § Tiếng Việt: - 1947-1990: Bài nhận định Tình Hình Thế Giới Trong Tháng Vừa Qua cùng nhiều bài báo về văn hóa & chánh trị Việt Nam trên nhiều tờ báo tiếng Việt ở trong và ngoài nƣớc, nhƣ TỰ DO DÂN BẢN, ĐƢỜNG MỚI, MEKONG-TỲNẠN, SAIGON, THẰNG MÕ, HỒN VIÊT, HƢỚNG VIỆT, DIỄN ĐÀN VIỆT NAM, CẤP TIẾN, DÂN QUYỀN, LỬA THIÊNG, QUỐC PHÒNG, ĐUỐC VIỆT, THANH NIÊN ... § Tiếng Pháp: - LA FRANCE ET LE VIETNAMIEN PARTISAN DE LA DÉMOCRATIE LIBÉRALE, trong ĐƢỜNG MỚI, Pháp Quốc, số 4, 1985. - LE CODE DES LÊ, nhận xét về bản dịch bộ luật nhà Lê ra tiếng Pháp của Ông Deloustal và về niên biểu ấn hành của bộ luật này, trong BULLETIN DE L'ÉCOLE FRANCAISE D'EXTRÊME ORIENT, Quyển LXVII, Pháp Quốc, 1980. § Tiếng Anh: 13 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net - Cùng viết với Gs Tạ Văn Tài: THE VIETNAMESE LEGAL TEXTS, trong THE LAW OF SOUTH-EAST ASIA, Quyển 1, THE PRE-MODERN TEXTS, do M.B. Hooker xuất bản, Butterworth & Co, 1986. - LIMITS ON STATE POWER IN TRADITIONAL CHINA AND VIETNAM, trong THE VIETNAM FORUM, Ban Nghiên Cứu Đông Nam Á Châu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, số 6, Hè-Thu 1985. - THE MING CODE IN VIETNAMESE LEGAL HISTORY: ITS INFLUENCE ON THE VIETNAMESE CODES AND OTHER LEGAL DOCUMENTS, trong MING STUDIES, số 19, Thu 1984. - ON THE PROCESS OF CODIFICATION OF THE NATIONAL DYNASTÝS PENAL LAWS, trong THE VIETNAM FORUM, Ban Nghiên Cứu Đông Nam Á Châu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, số 1, Đông-Xuân 1983. - THE PENAL CODE OF VIETNAM'S LÊ DYNASTY, trong STATE AND LAW IN EAST ASIA, để kỹ niệm ngày Ông Karl Bunger trí sĩ, do Dieter Eikemeier và Herber Franke xuất bản, Otto Harrassowitz, Weisbaden, 1981. Thuyết Trình: · VAI TRÒ HỒ CHÍ MINH TRONG DIỄN TIẾN CỦA TÌNH TRẠNG NHƠN QUYỀN TẠI VIỆT NAM, HỘI THẢO VỀ ĐỀ TÀI “CON NGƢỜI VÀ DI SẢN CỦA HỒ CHÍ MINH” tại Điện Luxembourg (Trụ sở Thƣợng Nghị Viện Pháp), trong 2 ngày 25 và 26-5-1990. · CHÁNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM tại Đại Học Không Quân Hoa Kỳ, Colorado Springs, ngày 11-4-1988. · KINH NGHIỆM CỦA HOA KỲ TẠI VIỆT NAM , Đại Học Không Quân Hoa Kỳ, Colorado Springs, ngày 12-4-1988. · CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NỀN AN NINH Á CHÂU tại Đại Học Monash, Melbourne, Úc Đại Lợi, ngày 17-9-1987. · LIÊN MINH LIÊN SÔ - CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NỀN AN NINH CỦA ĐÔNG NAM Á CHÂU, Hội Thảo Bàn Tròn do Hội Đồng An Ninh Quốc Tế tổ chức ở Bangkok từ ngày 6 đến 8-7-1986. · TRẬN CHIẾN ĐẤU CUỐI CÙNG VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM: 1973-1975, Hội Thảo do Đại Học Glassboro tổ chức trong ngày 7 và 8-4-1986. · VIỆT NAM DƢỚI ÁCH CỘNG SẢN, Hội Thảo tại Đại Học Harvard, ngày 23-11-1981, sau đƣợc Đại Học George Mason đăng trong bài nghiên cứu về VN. · THỰC TRẠNG Ở VIỆT NAM VÀ CÁC NƢỚC ĐÔNG DƢƠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO CÁC VẤN ĐỀ DO CÁC NƢỚC ẤY GÂY RA, Đại Học Minnesota, 3-10-1981. 14 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net · NGUYÊN NHƠN VÀ HẬU QUẢ CỦA VIỆC MIỀN NAM VIỆT NAM SỤP ĐỔ NĂM 1975, tại Đại Học Washington ở Seattle, 1980. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy qua đời vào ngày 28-7-1990 tại Paris hưởng thọ 66 tuổi, mang lại tiếc thương vô vàng cho mọi người mến mộ. 

Nguồn:http://nhanchung.club.officelive.com/Documents/GiaoSuNguyenNgocHuy .htm

No comments:

Post a Comment