Bí ẩn 30.4.1975
Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy
1) Mở đầu Đối với đa số ngƣời Việt đã từng sống trải qua,
ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thƣơng nhứt của một đời ngƣời. Cố Giáo Sƣ
Nguyễn Ngọc Huy - một bình luận gia am tƣờng mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi
tiếng với những bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa
qua" đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ - đã đề cập công khai trực tiếp
hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu
trên. Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi đƣợc tiếp xúc với Giáo sƣ Huy và đã
may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận đƣợc những chi tiết rất đặc
biệt. Sau khi Giáo sƣ Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng tôi đã đảm trách nối
tiếp Giáo sƣ Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới
trong tháng vừa qua" kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại
Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sƣ để
nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy đƣợc tầm kiến
thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sƣ Huy mà hiếm ai cùng thời có đƣợc
(xin xem thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn kiến
và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới. 2) Ai đã gây ra thảm
họa 30.04.1975? Câu hỏi lịch sử này cũng đã đƣợc bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua
và chƣa đi đến một kết luận nào hữu lý để đƣợc mọi khuynh hƣớng chấp thuận. Điển
hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại"
(“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày
9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng nhƣ cựu Đại sứ
Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt
cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trƣởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến
sĩ John Carland, Cựu Bộ trƣởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá
Hoàng Ngọc Lung... cũng 2 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy –
www.vietnamvanhien.net không đƣa ra đƣợc câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc:
Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975? Nhìn trở lại, ngƣời ta có thể thấy rõ ràng
trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hƣớng, từ chính trị
đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền
Nam. Chỉ có Giáo sƣ Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm
họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sƣ Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi
đến vấn đề nhức nhối này và đƣợc Giáo sƣ Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính
là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bƣớc
rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi ngƣời
đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống
Nixon vào ngày 9.8.1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãn tình thế. Về thế
lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sƣ Huy cho biết trên
chính trƣờng Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan
(Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái. - Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Ngƣời Mỹ gốc
Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống. - Bên cạnh đó Cộng Đồng
Ngƣời Mỹ gốc Do Thái chủ trƣơng nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy
điều khiển đất nƣớc Hoa Kỳ. Họ gài đƣợc nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng
nhƣ lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt nhƣ ngoại giao, quốc phòng và tài
chánh thƣờng thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trƣởng
cũng do ngƣời Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thƣợng Viện và Hạ Viện có khá nhiều
nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng
Đồng Ngƣời Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa
Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái. Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sƣ Huy
nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh
cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cƣơng quyết muốn thỏa hiệp riêng
("đi đêm"!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền
Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính
trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ
rệt. Nhƣ vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trƣơng của thế lực Do Thái. 3 Bí
Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net Thế lực Do Thái này
phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Ngƣời Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc
dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris,
London, Berlin, Moscow... với tổng số 13,1 triệu ngƣời, trong đó 5,4 triệu tại
quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia
khác. Thế lực này đƣợc điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm
cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (- World Jewish Congress
- từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc
Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sƣ Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết đƣợc dân
gốc Do Thái đặc biệt thƣờng với mũi to loại diều hâu, điển hình nhƣ Ngoại trƣởng
Kissinger hoặc Nữ Ngoại trƣởng Albright. Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sƣ Huy
hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 - 1986) nhân dịp
tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ
trƣơng Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dƣ luận báo chí quốc tế đã
sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách
Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm
thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm
Mỹ rút quân được an toàn!). Nhƣ vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân
chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy
chính sách đó đƣợc thực hiện qua Kissinger. 3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa
Kỳ bỏ rơi miền Nam? a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ Đối với chúng tôi quả thực
hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi đƣợc Giáo sƣ Huy vào năm 1982 cho biết đến
vai trò thực sự của ngƣời Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trƣờng
Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công
nhận thấy Giáo sƣ Huy hoàn toàn đúng. Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng
Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website:
http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Irish_ Americans) mà trong đó có Tổng Thống
Washington và những Tổng Thống gần đây nhƣ Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng
Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan) Cũng nhƣ hiện nay tại quốc hội có 15 Thƣợng
Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website 4
Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net
http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_ American_ politicians#List). Thực
sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều.
Họ thành công trong việc gài đƣợc những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết
hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây nhƣ: - trong Thƣợng Viện và Hạ Viện hiện
nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc
Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!). - trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trƣởng Henry
Kissinger dƣới thời TT Nixon và Bộ trƣởng Madeleine Albright dƣới thời TT
Clinton... - trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trƣởng James Schlesinger dƣới thời TT
Nixon và thời TT Ford. - trong Bộ Tài Chánh có Bộ trƣởng Larry Summer và Bộ trƣởng
Robert Rubin dƣới thời TT Clinton. - trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch
dƣới thời TT Reagan. - trong Ngân Hàng Trung Ƣơng (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ
Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sƣ Ben Bernanke từ 2006 đến nay. Họ còn
chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trƣờng chứng khoán, báo chí, truyền
thanh, truyền hình, và điện ảnh... Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt
là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân
sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt nhƣ Steven
Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford... (xem
website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_
entertainers). Họ biết rõ rằng nắm đƣợc truyền thông trong tay là hƣớng dẫn đƣợc
dƣ luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn
điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lƣợc nhằm đƣa ra những đề nghị
cho chính sách tƣơng lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi
của ngƣời Do Thái. Ngoài ra tại các cƣờng quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh
hƣởng tuy âm thầm nhƣng cũng mạnh mẽ lắm. Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy
(Pháp) & Thủ Tƣớng Đức Schmidt (Đức) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên
tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông. Chính
vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hƣởng
quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cƣờng quốc Âu Mỹ. 5
Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net b) Tại sao thế lực
Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam? Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu
lịch sử mất nƣớc và dựng lại nƣớc của ngƣời Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do
Thái chính thức bị mất nƣớc và phải lƣu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa
mất nƣớc đó thƣờng đƣợc dƣ luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do
Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một ngƣời Do
Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bƣớc đƣờng lƣu
vong. Nhƣng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết
nhau lại dƣới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu
tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về
quê hƣơng Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo
cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nƣớc vào ngày 14.5.1948 sau gần
2,000 năm lƣu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân
quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu
hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng
giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này. Nhƣ vậy, Do Thái còn tồn tại đến
ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm "lá bùa hộ mạng". Nhiều nghị quyết tại
Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt
Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng
giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh nhƣ Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan... ,
nhƣng luôn luôn "sống chết" hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ
bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lƣợc cho Hoa Kỳ,
mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào
thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về
năng lƣợng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ đƣợc
các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không đƣợc
đi trái ngƣợc lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái. Từ đó, chúng ta mới hiểu
rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì
họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trƣờng Việt Nam có thể đƣa
tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nƣớc Do Thái tồn
tại nhƣ trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trƣơng Hoa Kỳ phải giải
kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu
này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bƣớc một. 6 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc
Huy – www.vietnamvanhien.net c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền
Nam. Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960,
ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhƣợng bộ quá mức của
ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong
lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 - 1986) là một nhà tƣ bản lớn
nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở
Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với
nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhƣợng bộ rút lui này đã khiến lực lƣợng CSVN kiểm
soát đƣợc phần lớn các địa điểm chiến lƣợc tại Lào và thiết lập đƣờng mòn Hồ
Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào
30.4.1975. Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mƣu
luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm
kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hƣởng nhiều trong chánh phủ Tổng
Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống
Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dƣ
luận quần chúng. Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm
1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ... bắt đầu
gây tử thƣơng nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo
sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc
Loan!) của chiến tranh đƣợc hệ thống truyền thông Hoa Kỳ - đa số gốc Do Thái quản
trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chƣa từng
thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều
quốc gia khác. Tƣớng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trƣởng Quốc phòng của Do Thái- đột
ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp
bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lƣợng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến
"hành quân" chớp nhoáng đó, Tƣớng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề
nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này đƣợc (rất
là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa
ngay đề nghị khủng khiếp như vậy!). Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng đƣợc
thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc
thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt
Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tƣớng một mắt này, mà không hiểu
đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam!
7 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net Israeli
General Moshe Dayan on Patrol with US Marines - South Vietnam 1966 Phong trào
phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải
quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân
Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng
cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài đƣợc Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho
Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử
viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhƣng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối
cùng thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo
Nixon và đƣợc trọng dụng làm Cố vấn An ninh. Thế lực Do Thái còn đƣa đƣợc thêm
nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trƣởng
Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 -
1999)... Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mƣu cho Nixon bỏ
rơi miền Nam. Bắt đầu với chƣơng trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết
Mậu Thân 1968 để từng bƣớc giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện
của Hoa Kỳ tại miền Nam. Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách
tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đƣa đến thỏa hiệp Thƣợng Hải 1972 giữa
Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nƣớc
Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trƣờng thế giới, nhƣng bên
trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi
miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng. Quả nhiên, chỉ sau đó chƣa đầy một năm,
Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo
VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày
27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ đƣợc an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dƣ luận báo
chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mƣu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống
nhƣ tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam. Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề
trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T
Nixon nhƣ sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1
năm rưỡi mới mất". Tƣơng tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “Hoa Kỳ
phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai
năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn
là bãi hoang vắng”. 8 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy –
www.vietnamvanhien.net Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng
nhƣ tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái. Chỉ sau Hiệp Định Paris
khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc
gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị
thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trƣớc đây. Đáng lẽ Do Thái còn
có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhƣng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục đƣợc
Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy
nhiên, sau đó Tƣớng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trƣởng Quốc phòng vì
chịu trách nhiệm bị thua trận. 4) Kết luận Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom
Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ
Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trƣờng Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm
giúp cho Do Thái thắng trận nhƣ trƣớc đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế
lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới
lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam. Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ
phải rút quân bỏ rơi miến Nam đƣợc che dấu tinh vi không đƣa ra dƣ luận nổi, bởi
vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do
Thái hoặc bị họ ảnh hƣởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng
bài Do Thái (Anti-Semitism). Cho nên đến 35 năm sau dƣ luận vẫn còn bị xí gạt.
Điển hình, về phía dƣ luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả (thí dụ: Tiến sĩ
Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam
– a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010) lầm
lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung
Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam (chịu thua!) vì đang câu con cá to hơn
(“has bigger fish to fry”). Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ
khi Kissinger bƣớc vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến
Tranh. Về phía Cộng Sản Bắc Việt, ngoại trừ lợi thế sẵn có của đƣờng lối độc
tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển ngƣời hy
sinh "nướng quân" hàng loạt trên chiến trƣờng (theo nhận xét của Tướng
Westmoreland!), họ không ngờ có đƣợc sự giúp đỡ hữu hiệu của 9 Bí Ẩn 30.04.1975
– GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net thế lực Do Thái tạo ra phong trào
phản chiến đƣa tới tình trạng "Đồng Minh tháo chạy" (từ ngữ theo Tiến
sĩ Nguyễn Tiến Đức!) bỏ rơi VNCH. Thực tế, nếu không có sự phản bội của thế lực
Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chƣa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt
sớm thắng trận. Nhƣ vậy miền Nam chỉ cần cầm cự đƣợc vài năm cho đến khi Tổng
Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cƣơng quyết nổi tiếng của
ông này chắc chắn miền Nam sẽ đƣợc yểm trợ đầy đủ (đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ
và A Phú Hãn!) để không thể dễ dàng rơi vào tay cộng sản nhƣ đã xảy ra trong
ngày 30.4.1975. Đa số ngƣời Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc
Do Thái (một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh "Về miền đất hứa /
Exodus" của tác giả Leon Uris) vì ngƣỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu
dũng cảm của họ sau 2000 năm lƣu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc
gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trƣớc mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng
trong cảm tình nồng nàn đó, Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết
tác phẩm "Bài học Israel (Do Thái)" . Nhƣng thực tế chính trị cho thấy
tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc, nên chính ông đã không ngần
ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết
qua Giáo sƣ Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mƣu sâu của thế
lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hƣơng Việt Nam và dẫn tới
hiểm họa mất nƣớc vào tay Trung Cộng. Chúng tôi tin rằng Giáo sƣ Nguyễn Ngọc
Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bƣớc tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn
về thảm họa 30.4.1975 và trong tƣơng lai sẽ đƣợc giới truyền thông báo chí chú
tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau
không còn bị sai lầm nữa. Mong thay! Phạm Trần Hoàng Việt (Tháng Tư Đen 2010)
10 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net Phụ đính Tiểu
Sử Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy Sanh vào ngày 2 tháng 11 năm 1924, quê tại Mỹ Lộc,
quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Văn bằng: § 1963: Tiến Sĩ Chánh Trị Học, Trƣờng Đại
Học Luật Khoa & Kinh Tế Paris. Luận án: “Đề tài ngƣời ƣu tú trong tƣ tƣởng
chánh trị Trung Quốc cổ thời” § 1960: Cao Học Chánh Trị, Trƣờng Đại Học Luật
Khoa & Kinh Tế Paris. § 1959: Cử Nhơn Luật Khoa và Kinh Tế, Viện Đại Học
Paris. § Tốt nghiệp Viện Nghiên Cứu Chánh Trị Đại Học Paris. § Tự học thi đậu bằng
Tú Tàị. § Học sinh trƣờng Pétrus Trƣơng Vĩnh Ký, thi đậu bằng Trung Học. Một
trong học sinh đậu xuất sắc nhứt tại Đông Dƣơng (xem phim tài liệu về Thân Thế
& Sự Nghiệp Giáo sƣ Nguyễn Ngọc Huy / Câu Lạc Bộ Đằng Phƣơng thực hiện năm
2007). Chức vụ: Trong Ngành Giảng Huấn: § Từ 1976: Phụ Khảo tại Trƣờng Đại Học
Luật Khoa Harvard (Hoa Kỳ). § 1965-1975: Giáo Sƣ Chánh Trị Học và Luật Hiến
Pháp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh tại Sài Gòn, Trƣờng Đại Học Luật Khoa và
Khoa Học Xã Hội tại Cần Thơ, Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm tại Sài Gòn, Trƣờng Đại Học
Luật Khoa tại Huế. Ngoài ra còn giảng dạy tại các Trƣờng Đại Học Đà Lạt, Vạn Hạnh,
Minh Đức, Minh Trí... và ở Trƣờng Cao Đẳng Quốc Phòng, Trƣờng Chỉ Huy Tham Mƣu
Cao Cấp, Trƣờng Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị. § 1967-1968: Khoa Trƣởng Luật
Khoa và Khoa Học Xã Hội tại Cần Thơ. Trong Chánh Quyền: § 1973 và 1968-1970:
Nhơn viên phái đoàn tham dự thƣơng thuyết Hòa Đàm Paris. § 1967: Hội Viên Hội Đồng
Dân Quân. § 1964: Đổng Lý Văn Phòng Phủ Phó Thủ Tƣớng Đặc Trách Bình Định. Hoạt
Động Chánh Trị: § Từ 1986: Hội Viên Ủy Ban Danh Dự của Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ
VN Tự Dọ § Từ 1981: Chủ Tịch Ủy Ban Chấp Hành Trung Ƣơng Liên Minh Dân Chủ Việt
Nam. § 1973-1975: Đồng Chủ Tịch Liên Minh Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội (gồm 6 đảng).
11 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net § 1969-1975:
Tổng Thơ Ký Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến. § 1964-1990: Thành lập đảng Tân Đại
Việt và là lãnh đạo đảng cho đến năm 1990. § 1945-1964: Đảng viên Đại Việt Quốc
Dân Đảng và tham dự Ủy Ban Chấp Hành Trung Ƣơng năm 1948. Tưởng Lục: § WHO'S
WHO đông bộ Hoa Kỳ, ấn bản lần thứ 18, 1981-1982. § Giải thƣởng của Viện Đại Học
Paris trao luận án Tiến sĩ xuất sắc nhất trong năm. Chuyên Môn: § Luật Hiến
Pháp, Tƣ Tƣởng Chánh Trị, Định Chế Chánh Trị, Bang Giao Quốc Tế. § Thông thạo
ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh và Hán văn. Tác phẩm : § Tiếng Việt: 1. HỒN VIỆT, thơ,
Sài Gòn, 1950, tái bản ở Paris năm 1984. 2. QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT (Quyển A), Việt
Publisher, Canada, 1990. 3. DÂN TỘC SINH TỒN, chủ thuyết của Đại Việt Quốc Dân
Đảng, đƣợc bổ túc, phong phú hóa và thâu nhận các nguyên tắc tự do dân chủ, (2
quyển), Sài Gòn, 1964. 4. DÂN TỘC HAY GIAI CẤP ? 5. BIỆN CHỨNG DUY XẠO LUẬN
(Trào phúng). 6. CÁC ẨN SỐ CHÁNH TRỊ TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG, Thanh
Phƣơng Thƣ Quán, San Jose, Hoa Kỳ, 1986. 7. HÀN PHI TỬ: bản dịch ra Việt ngữ
tác phẩm của Hàn Phi, nhà lý thuyết trứ danh của học phái Pháp Gia Trung Quốc,
(2 quyển), Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1974. 8. LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT CHÁNH TRỊ, Cấp
Tiến, Sài Gòn, 1970- 1971. 9. ĐỀ TÀI NGƢỜI ƢU TÚ TRONG TƢ TƢỞNG CHÁNH TRỊ TRUNG
QUỐC CỔ THỜI, bản dịch Luận án Tiến sĩ viết bằng tiếng Pháp, Cấp Tiến, Sài Gòn,
1969. 10. Tên Họ Ngƣời Việt Nam . Mekong-Tỳnạn, California, USA - Cùng viết với
Gs Trần Minh Xuân (2 cuốn 11 và 12 trong danh sách này): 11. Hiệu đính và chú
thích LỤC SÚC TRANH CÔNG. Đi tìm tác giả và dụng ý chánh trị trong tác phẩm.
Mekong-Tỳnạn, California, USA, 1991. 12 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy –
www.vietnamvanhien.net 12. HỒ CHÍ MINH: TỘI PHẠM NHƠN QUYỀN VIỆT NAM. Mekong-Tỳnạn,
USA, 1992. § Tiếng Pháp: 13. POUR UNE NOUVELLE STRATÉGIE DE DÉFENSE DU MONDE
LIBRE CONTRE L'EXPANSION COMMUNISTE, Alliance Pour La Démocratie Au Vietnam,
Paris, 1985. § Tiếng Anh: 14. THE LÊ CODE: LAW IN TRADITIONAL VIETNAM, bản dịch
ra tiếng Anh và chú thích bộ QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT, tục danh LUẬT HỒNG ĐỨC của
nhà Lê (1428-1788), Ohio University Press, Hoa Kỳ, 1987 - cùng viết với Gs Tạ
Văn Tài và Gs Trần Văn Liêm - 15. A NEW STRATEGY TO DEFEND THE FREE WORLD
AGAINST COMMUNIST EXPANSION, Alliance For Democracy In Vietnam, 1985. 16.
PERESTROIKA OR THE REVENGE OF MARXISM OVER LENINISM, Việt Publisher, Canada,
1990. Cùng viết với Gs Stephen B. Young (2 cuốn 17 và 18 trong danh sách này)
17. UNDERSTANDING VIETNAM, do T.D.T. Thomason xuất bản, The Displaced Persons
Center Information Service, Bussum, The Netherlands. 18. THE TRADITION OF HUMAN
RIGHTS IN CHINA AND VIETNAM, Yale Southeast Asia Studies, The LẠC VIỆT Series,
New Haven, CT, USA, 1990. Bài Đăng Báo: § Tiếng Việt: - 1947-1990: Bài nhận định
Tình Hình Thế Giới Trong Tháng Vừa Qua cùng nhiều bài báo về văn hóa &
chánh trị Việt Nam trên nhiều tờ báo tiếng Việt ở trong và ngoài nƣớc, nhƣ TỰ
DO DÂN BẢN, ĐƢỜNG MỚI, MEKONG-TỲNẠN, SAIGON, THẰNG MÕ, HỒN VIÊT, HƢỚNG VIỆT, DIỄN
ĐÀN VIỆT NAM, CẤP TIẾN, DÂN QUYỀN, LỬA THIÊNG, QUỐC PHÒNG, ĐUỐC VIỆT, THANH
NIÊN ... § Tiếng Pháp: - LA FRANCE ET LE VIETNAMIEN PARTISAN DE LA DÉMOCRATIE
LIBÉRALE, trong ĐƢỜNG MỚI, Pháp Quốc, số 4, 1985. - LE CODE DES LÊ, nhận xét về
bản dịch bộ luật nhà Lê ra tiếng Pháp của Ông Deloustal và về niên biểu ấn hành
của bộ luật này, trong BULLETIN DE L'ÉCOLE FRANCAISE D'EXTRÊME ORIENT, Quyển
LXVII, Pháp Quốc, 1980. § Tiếng Anh: 13 Bí Ẩn 30.04.1975 – GS Nguyễn Ngọc Huy –
www.vietnamvanhien.net - Cùng viết với Gs Tạ Văn Tài: THE VIETNAMESE LEGAL
TEXTS, trong THE LAW OF SOUTH-EAST ASIA, Quyển 1, THE PRE-MODERN TEXTS, do M.B.
Hooker xuất bản, Butterworth & Co, 1986. - LIMITS ON STATE POWER IN
TRADITIONAL CHINA AND VIETNAM, trong THE VIETNAM FORUM, Ban Nghiên Cứu Đông Nam
Á Châu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, số 6, Hè-Thu 1985. - THE MING CODE IN
VIETNAMESE LEGAL HISTORY: ITS INFLUENCE ON THE VIETNAMESE CODES AND OTHER LEGAL
DOCUMENTS, trong MING STUDIES, số 19, Thu 1984. - ON THE PROCESS OF
CODIFICATION OF THE NATIONAL DYNASTÝS PENAL LAWS, trong THE VIETNAM FORUM, Ban
Nghiên Cứu Đông Nam Á Châu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, số 1, Đông-Xuân 1983. -
THE PENAL CODE OF VIETNAM'S LÊ DYNASTY, trong STATE AND LAW IN EAST ASIA, để kỹ
niệm ngày Ông Karl Bunger trí sĩ, do Dieter Eikemeier và Herber Franke xuất bản,
Otto Harrassowitz, Weisbaden, 1981. Thuyết Trình: · VAI TRÒ HỒ CHÍ MINH TRONG
DIỄN TIẾN CỦA TÌNH TRẠNG NHƠN QUYỀN TẠI VIỆT NAM, HỘI THẢO VỀ ĐỀ TÀI “CON NGƢỜI
VÀ DI SẢN CỦA HỒ CHÍ MINH” tại Điện Luxembourg (Trụ sở Thƣợng Nghị Viện Pháp),
trong 2 ngày 25 và 26-5-1990. · CHÁNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM tại
Đại Học Không Quân Hoa Kỳ, Colorado Springs, ngày 11-4-1988. · KINH NGHIỆM CỦA
HOA KỲ TẠI VIỆT NAM , Đại Học Không Quân Hoa Kỳ, Colorado Springs, ngày
12-4-1988. · CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NỀN AN NINH Á CHÂU tại Đại Học Monash,
Melbourne, Úc Đại Lợi, ngày 17-9-1987. · LIÊN MINH LIÊN SÔ - CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀ NỀN AN NINH CỦA ĐÔNG NAM Á CHÂU, Hội Thảo Bàn Tròn do Hội Đồng An Ninh Quốc
Tế tổ chức ở Bangkok từ ngày 6 đến 8-7-1986. · TRẬN CHIẾN ĐẤU CUỐI CÙNG VÀ SỰ SỤP
ĐỔ CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM: 1973-1975, Hội Thảo do Đại Học Glassboro tổ chức
trong ngày 7 và 8-4-1986. · VIỆT NAM DƢỚI ÁCH CỘNG SẢN, Hội Thảo tại Đại Học
Harvard, ngày 23-11-1981, sau đƣợc Đại Học George Mason đăng trong bài nghiên cứu
về VN. · THỰC TRẠNG Ở VIỆT NAM VÀ CÁC NƢỚC ĐÔNG DƢƠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO CÁC VẤN
ĐỀ DO CÁC NƢỚC ẤY GÂY RA, Đại Học Minnesota, 3-10-1981. 14 Bí Ẩn 30.04.1975 –
GS Nguyễn Ngọc Huy – www.vietnamvanhien.net · NGUYÊN NHƠN VÀ HẬU QUẢ CỦA VIỆC
MIỀN NAM VIỆT NAM SỤP ĐỔ NĂM 1975, tại Đại Học Washington ở Seattle, 1980. Giáo
sư Nguyễn Ngọc Huy qua đời vào ngày 28-7-1990 tại Paris hưởng thọ 66 tuổi, mang
lại tiếc thương vô vàng cho mọi người mến mộ.
Nguồn:http://nhanchung.club.officelive.com/Documents/GiaoSuNguyenNgocHuy
.htm
No comments:
Post a Comment