TIỂU
SỬ PHAN LẠC TIẾP
Ông sinh năm 1933 tại
Sơn Tây, Bắc Việt. Di cư vào Nam năm 1954 sau Hiệp định Geneve.
Sĩ quan Hải Quân VNCH. Di tản năm 1975 khi chính quyền miền Nam thất thủ.
Suốt những năm từ 1975 - 1985s, khi làn sóng người Việt vượt biển lên cao độ, ông đã tích cực tiếp tay trong công tác Cứu Người Biển Đông và đã cùng Tiến Sĩ Trần Hữu Xương lập ra ‘SOS Committee for Boat People’.
Định cư tại San Diego California USA.
Sĩ quan Hải Quân VNCH. Di tản năm 1975 khi chính quyền miền Nam thất thủ.
Suốt những năm từ 1975 - 1985s, khi làn sóng người Việt vượt biển lên cao độ, ông đã tích cực tiếp tay trong công tác Cứu Người Biển Đông và đã cùng Tiến Sĩ Trần Hữu Xương lập ra ‘SOS Committee for Boat People’.
Định cư tại San Diego California USA.
NGUYÊN SA - HÀ NỘI
Phan
Lạc Tiếp
Khi
loạt bài viết về quê nhà sau 40 năm trở lại, tôi được nhiều người gọi tới thật
bất ngờ. Một trong những sự bất ngờ đó là thi sĩ Nguyên Sa. Anh gọi lại và nói:
“Xin phép anh cho tôi được in lại loạt bài của anh trên báo Dân Chúng của
tôi...” Tất nhiên là tôi vui vẻ nhận lời ngay. Tôi nói: “Cảm ơn anh, đã gọi và
ngỏ ý như thế. Đó là một niềm vui cho tôi. Hơn nữa, chính lúc này có nhiều báo
tại nhiều nơi họ đang in lại mà chẳng ai “xin phép” tôi cả. Họ cũng chẳng gửi
cho tôi một bản để làm duyên...” anh Nguyên Sa cười và tiếp: “Cái đó lạ. Mà hầu
như lại là một cái lệ ở làng báo Việt Nam này. Cái lệ thật tệ...” Anh vẫn chỉ
cười và tiếp: "Loạt bài của anh tôi thích quá. Tôi học tiếng Việt ở bên
Tây, và lúc nhỏ cứ tưởng Tây nó mới hay. Nay đọc loạt bài của anh...” Từ đó, từ
giữa năm 1994 đến nay, anh Nguyên Sa cứ lâu lâu lại gọi lại, cho biết những
sinh hoạt, những tin tức về bè bạn, về văn học các nơi, và anh còn nói: “Tôi
đau hoài khá nặng. Nhà tôi ở Irvine, trên đường anh đi lên Santa Ana, nên rất
là mong mời anh chị ghé chơi để chúng ta có cơ hội nói nhiều hơn về quê cũ, về
Sơn Tây, Hà Nội ...” Tôi đã nhận lời, và nghĩ “thì cứ từ từ, hôm nào rảnh rồi
sẽ lên thăm anh Nguyên Sa ...”
Lời hứa
hãy bỏ đó, và thỉnh thoảng anh Nguyên Sa lại gọi tới. Qua những cuộc điện đàm,
tôi được anh cho biết: “Năm 1947 thì phải, lúc tản cư khỏi Hà Nội, gia đình tôi
chạy tạt về vùng Thạch Thất, quê anh đấy. Lâu quá không còn nhớ rõ. Tôi chỉ
biết là có đi qua cống Đặng, qua con sông, rồi ở nhờ mấy làng ở chân núi.” Tôi
lại cười và tiếp lời anh: “Cống Đặng thuộc làng Đặng Xá, làng của anh Tú Kếu –
Trần Đức Uyển. Còn cái làng bên kia sông, ấy là các làng có cái tên thật hay là
các làng Cần Kiệm, Phú Lễ, Phú Đa, Trúc Động, Hạ Lôi, ở quanh chân núi Câu Sơn,
bên kia con sông Tích Giang ...”Tôi vừa nói đến đó thì anh Nguyên Sa vội ngắt
lời: “Phải rồi, Trúc Động, tôi nhớ rồi ... Làng đầy tre. Một thứ tre to, lá
lớn...” Tôi tiếp lời anh: “Đó là loại tre mai, lá to như một con cá. Thân tre
to và thẳng. Đó là quê của anh Dương Nghiễm Mậu – Phí Ích Nghiễm”. Anh lại cười
và nói: "Lạ thế ra nơi đó có nhiều người nổi tiếng quá nhỉ ...” Tôi tiếp:
“Vâng các anh ấy nổi tiếng chứ không phải tôi”. Anh cười. Tôi tiếp: “Hạ Lôi,
như một số sử liệu mới được phát giác, chính là nơi xuất phát cuộc
khởi
nghĩa của hai vị nữ anh hùng Bà Trưng – Bà Triệu”. Cứ như thế, qua lại và nêu
thắc mắc, Khi tôi viết về Quang Dũng và nói đến chị Hồ Điệp, thì anh lại gọi và
nói: "Thế ra anh biết anh Quang Dũng kỹ quá nhỉ. Kể như cùng quê với nhau.
Từ làng anh, làng Nủa ra Phùng rất gần. Và chị Hồ Điệp nữa, người làng anh nhỉ.
Nói về
chị Hồ Điệp, tôi muốn nói về quê ngoại của chị ấy và cũng là quê ngoại của chị
Thái Hằng, Thái Thanh. Quê thật lắm tài... Đàn ông thì hát chèo thật hay. Đám
chèo làng phải phục. Con gái thì hầu như tất cả đầu hát rất giỏi. Vì Hiệp là
đất bãi, đất cát chỉ trồng mía và dâu, không thể cấy lúa được, nên đến mùa gặt,
trai gái làng Hiệp (Hiệp Thượng và Hiệp Hạ) đến đất làng tôi cả làng quanh đấy
để gặt thuê. Chính dân làng Hiệp trong các phiên gặt lúa ấy đã là đầu mối của
các đêm hát ví tất là vui. Đó là những đêm trăng, lúc làm việc nhẹ, hoặc chờ
một ngày nghỉ giữa hai ngày đi gặt, họ đã cất tiếng hát, hát đùa, hát đố các
thanh niên nam nữ làng Nủa. Họ hát cho vui và còn để bày tỏ cái tài ứng đối rất
văn vẻ của dân làng Hiệp. Tất nhiên thanh niên làng Nủa đâu có chịu lép. Con gà
tức nhau tiếng gáy. Phải đối lại chứ. Vì thế có những đêm hát ví thật là khuya.
Từ khi con trăng mới lộ ở đầu cây bưởi, cho đến khi con trăng sáng rực giữa
trời, họ vẫn còn hát. Càng về đêm trăng càng như sáng hơn, tiếng hát của đôi
bên hình như trong hơn. Các câu đố càng về khuya càng tức nên khó hơn và tình
tứ hơn...
Tôi có
nói chuyện này với anh Nguyên Sa, anh bảo: “Tiếc nhỉ. Tôi không có dịp sống ở
nhà quê nhìn lúa như thế. Nhà quê thật là đẹp. Tôi đi Pháp sau khi tản cư về
lại Hà Nội. Ở Pháp tôi học tiếng Việt...” Nỗi hối tiếc rất văn nghệ này của anh
Nguyên Sa, tôi thông cảm được. Vì anh Nguyên Sa là con nhà giàu, rất giàu, được
sinh ra giữa lúc nền cai trị của Pháp đang mạnh mẽ, muốn tiến thân các con nhà
khá giả phải đi học trường Pháp. Nếu được gửi ra hải ngoại, hiểu là sang Pháp
du học, là con đường chắc nhất. Học từ “chính gốc. Nói tiếng Tây như Tây..” Anh
Nguyên Sa sinh vào đầu thập niên 30. Lúc nhỏ như anh cho biết là đi học trường
Tây, rồi qua Tây. Nhà anh, lúc bé tôi có biết. Biết vì nhà anh rất đặc biệt,
hầu như ai ở Hà Nội đều biết. Nhà anh không ở Hà Nội 36 phố phường như Hàng
Đào, Hàng Vải, Hàng Đồng… ... Nhà anh ở khu phố Tây. Một khu phố bậc nhất. Tên
phố ấy tiếng Pháp gọi là gì, tôi đã quên mất, nhưng tên Việt là Tràng Tiền. Nhà
anh ở ngay căn đầu, ngay ngã 6, bắt đầu từ Nhà Hát Lớn nhìn ra. Phố ấy “chỉ có
Tây nó ở” Các nhà hàng lớn của Tây ở đây. Nhà anh có một cái bảng hiệu thật to,
vẽ một người được xếp lại bằng cái bánh xe cao su. Vì các cụ thân sinh ra anh
là một trong mấy người thành công nhất Hà Nội lúc ấy. Cửa hiệu đề Establishment
Trần Văn Chi. Đại diện cho hãng bán vỏ lốp xe và các vật đụng bằng cao su của
hãng Michelin. Với tôi lúc bé nhìn bảng hiệu ấy mà sợ. Cửa hiệu to hơn hiệu
Tây. Người ra vào tấp nập, Ai cũng mặc áo Tây, cà vạt chỉnh tề Và tất nhiên ở
đấy không ai nói tiếng An Nam. Từ nhà anh hay Establishment Trần Văn Chi đi về
tay mặt độ 300 thước đường rộng rợp bóng cây to, là viện Đại học Hà Nội, nơi
độc nhất của toàn cõi Đông Dương sản xuất ra các quan đốc, các ông cử. Và gái
Hà Nội nhìn vào đó mà có câu: “Phi cao đẳng bất thành phu phụ. Anh không học ở đây
ra là em không lấy”. Vẫn từ nhà anh, băng qua khu công viên rộng lớn trước nhà
Hát Lớn là tới Viện Bảo Tàng, sát bờ sông. Ở đó, bên cạnh Viện Bảo tàng là bãi
cát ven sông Hồng đỏ ngầu mênh mông.
Trẻ con
HÀ NỘI ra đó đá bóng và tắm sông. Có lẽ anh Nguyên Sa cũng đã ra đây chơi đùa
hồi nhỏ, nên anh đã viết:
Sông
Hồng, tuổi nhỏ, ngút đầu
Dường
như động mạch đục ngầu phù sa.
Vẫn từ
cửa hiệu của nhà anh đi về phía trái chưa đầy 200 thước, gặp trên Tây, là thấy
góc bờ hồ Hoàn Kiếm. Chính ở góc bờ hồ này là nơi các cô gái làng Nhật Tân đem
hoa bày bán. Hoa phần lớn là bán cho Tây. Khác với các chị bán hoa quảng gánh
đi giao tận nhà. Các gói hoa nhỏ gói vào lá chuối xanh, buộc cói chiếu. Trong
gói có mấy cái hoa cúc, hoa lan, hoa huệ. Các hoa này được ngâm nước cho tươi
rồi bày lên đĩa đặt lên bàn thờ Phật. Cũng từ nơi nhà anh Nguyên Sa, băng qua
đường là nơi Tây nó từ nơi xa đến. Khách sạn sang hạng nhất, có cái cửa kính cứ
quay đều đều. Đó là khách sạn Métropole. Từ ngoài đường nhìn vào chỉ thấy Tây –
Đầm đi lại. Thấp thoáng có các người bồi An Nam mặc áo Tây trắng là thẳng tấp
đi đi, lại lại, sách các va li cho Tây từ xe vào trong khách sạn. Tiếp tục đi
là đến nhà băng Đông Dương. Một lối lên vòng như cái cầu, bên cạnh đường xe lửa
là một hàng cây dừa nhỏ mọc đều... Gớm! Tây quá là Tây ở cái khu nhà anh Trần
Bích Lan - Nguyên Sa ở lúc trước năm 1954.
Nhưng
điều mà tôi ghi nhớ và ân hận là việc này. Chính nơi hội tụ của 6 con đường
trước cửa nhà Hát Lớn này là một nơi đã diễn ra một biến cố lịch sử. Biến cố ấy
đã mở đầu cho một cuộc chiến tranh dài và đau khổ của người Việt chúng ta.
Chính nơi này, nếu đứng trên gác nhà anh Nguyên Sa nhìn xuống thì rõ mồn một.
Hôm 18 tháng 8 năm 1945, hầu như toàn thể công chức và sinh viên Hà Nội đã có
cuộc biểu tình lớn tại đây để bày tỏ lòng trung thành và ủng hộ chính quyền
Trần Trọng Kim trong việc yêu cầu Nhật trả lại độc lập cho người Việt. Cuộc
biểu tình to lớn, đã không bị lính Nhật đàn áp như nỗi lo sợ của nhiều người,
vì thế hôm sau 19 tháng 8 năm 1945 vẫn thành phần trên, và được rất đông đồng
bào Hà Nội ủng hộ. Họ đã kéo về đây để biểu dương lực lượng. Nhưng trước biển
người hiện diện, bỗng có sự rối loạn nhỏ tại diễn đàn. Có vài phát súng lục nổ.
Và bỗng từ từ lầu 2 của Nhà Hát Lớn, một lá cờ đỏ sao vàng vĩ đại che kín suất
cả khuôn cửa lớn của từng hai phủ xuống lầu một. Và trên diễn đàn bỗng náo
nhiệt, và rồi sau là lời nói: "Đây là mặt trận Việt Minh..." Các lá
cờ đỏ sao vàng cầm tay được phân phát lác đác và cả biển người thành ra cuộc
nổi dậy của Việt Minh. Chính giáo sư trường Kỹ Nghệ Hà Nội, ông Nguyễn Văn
Luân, người làng tôi, làng Nủa, là người đã xách cái va li đựng lá cờ ấy treo
và thả xuống trước mặt tiền Nhà Hát Lớn Hà Nội. Sai một li đi một dặm là ở chỗ
này..
Điều
này tôi chưa viết ra. Tôi định hôm nào như đã hứa, tôi sẽ lên thăm anh Nguyên
Sa, tôi sẽ nói lại. Biết đâu, lúc ấy, cậu học trò 14 tuổi Trần Bích Lan, nếu
đứng trên lầu nhà cậu, cậu đã thấy tất cả. Lịch sử nhờ đó sẽ được hé ra một
phần. Tôi chắc là giữa chúng tôi, một thời đã ở Hà Nội, sẽ có nhiều điều nói
với nhau. Đặc biệt là tháng 5 năm 1996, trong buổi ra mắt một cuốn sách Quê
Nhà, 40 năm trở lại của tôi tại Philadelphia, khi gần tàn cuộc vui, tôi đi giữa
các bàn để bắt tay mọi người, tôi có gặp một người. Đó là một cụ bà. Cụ đã nắm
bàn tay tôi và nói: “Ông ơi, tôi đọc các bài viết của ông mà nhớ hồi tản cư
quá. Chính gia đình tôi đã tản cư về làng Nủa chợ của ông. Tôi đến đây để gặp
ông và cám ơn về làng Nủa... Tôi là cô thằng LAN”. Tôi xúc động và lễ phép
thưa: “Dạ Lan nào ạ?” Cụ cười đáp: “Tôi là cô thằng Lan, Trần Bích Lan đấy!”
Tôi “à”, và thưa "Dạ, Giáo sư Trần Bích Lan”. Khi trở lại San Diego, tôi
có gọi cho anh Nguyên Sa. Anh cười ‘Vâng cô tôi đấy”.
Tôi
không có thì giờ để hỏi rõ cụ bà này là thân thích thế nào với anh Nguyên Sa.
Tôi cũng chưa có dịp hỏi anh Nguyên Sa thêm về thời gian anh đã tản cư qua vùng
quê tôi. Có thể anh đã ghé làng tôi trước khi qua sông vào vùng chân núi. Vì
làng tôi có cái chợ rất to, vùng phụ cận phải qua đây mua bán. Để hôm nào tôi
lên thăm anh. Và để làm quà cho anh, tôi đã nhờ đứa cháu tại Hà Nội chụp cho
tôi tấm hình Nhà Hát Lớn Hà Nội. Căn nhà đồ sộ ấy, dù chẳng muốn, chắc hẳn đã
in đậm trong trí nhớ của anh. Con chim sẽ đậu trên bậu cửa căn gác nhà anh, anh
mở cửa ra, con chim bay đi, có thể chỉ một cái xuôi cánh, đã lại đậu ở cái hoa
văn, dù rất Tây, Nhà Hát Lớn. Tôi cũng bảo đứa cháu chụp căn nhà anh, căn nhà
đồ sộ, ba tầng, xưa là cơ sở kinh doanh của cụ Trần Văn Chi. Có lẽ từ căn nhà
này, sau khi tản cư từ vùng Thạch Thất, Sơn Tây về Hà Nội, cậu học trò Trần
Bích Lan, đã ở trong một các căn buồng đẹp đẽ này. Và khi cậu được cho đi Pháp
học, xe hơi từ nhà đưa cậu ra phi trường Gia Lâm. Đi cho nhanh, dù nhà cậu, là
đi đường bờ sông, qua Cột Đồng Hồ, rồi lên cầu Long Biên, qua Gia Lâm bên kia
sông. Nhưng tôi nghĩ rằng, cậu Trần Bích Lan, sau này là Thi sĩ Nguyên Sa, sẽ
đi con đường khác. Từ nhà, cậu sẽ cho xe rẽ trái, đi suốt chiều dài của phố
Trường Tiền, rẽ mặt ở góc bờ hồ, chỗ bán hoa, đi qua Bưu Điện, Tòa Đốc Lý, rồi
lại rẽ mặt vào Hàng Đào ngập đầy tơ lụa. Tiếp đến là Hàng Ngang đầy các hiệu
tạp hóa, rồi tới qua Hàng Đường ngọt thơm mùi bánh. Qua chợ Đồng Xuân, qua Hàng
Giấy, đi dưới gầm cầu, rồi rẽ mặt ở Hàng Đậu. Bỏ cái nhà chứa nước rất to, trên
ở đầu vườn hoa Hàng Đậu, ngang nơi tiếp giáp của đầu Hàng Than và phố Quan
Thánh. Quan Thánh cái phố có hai dãy cây bàng cành đan che kín cả lòng đường.
Lòng đường tuy không hẹp lắm, nhưng giữa đường có đường rầy xe lửa từ Hàng Giấy
rẽ vào. Xe điện về đến đây ban tối chạy nhanh, lòng tàu rỗng không, kêu leng
keng rồi mất hút về phía Thụy Khê. Con đường ven theo hồ Trúc Bạch mênh mông.
Con đường gặp Cổ Ngư đầy gió mát giữa Trúc Bạch và Hồ Tây ... Xe của anh rẽ lên
cầu Long Biên ở gần bến Nứa. Cái dốc cao. Cầu Long Biên cao lồng lộng gió bắc
qua sông Hồng Hà đỏ quạnh phù sa. Từ trên cầu nhìn về tay phải là đường Bờ
Sông, lối đi có Cột Đồng Hồ. Bên kia sông là bãi cát của huyện Gia Lâm, bao bọc
bởi Hồng Hà một phía, một phía là con sông Đuống nổi tiếng qua thơ Hoàng Cầm.
Tới phi trường Gia Lâm, lên máy bay để vào Nam, Saigon, trước khi qua Pháp, tôi
nghĩ thế, chắc cựu học trò tài hoa Trần Bích Lan không thể không nhìn qua cửa
kính máy bay để nhìn Hà Nội ở phút giã từ. Máy bay đảo một vòng. Dưới cánh máy
bay phía tay phải, trước khi lấy hướng Nam, là Hà Nội của anh nằm giữa những
lằn cây xanh. Hồ Hoàn Kiếm xanh có hình một quả xoài. Hồ Thiền Quan hình thang
và lỗ chỗ các nền màu xanh ngọc bích của các mảnh hồ khác.. Máy bay lên cao. Hà
Nội đã lấp sau làn mây trắng. Kể từ lúc ấy, sau khi tản cư về, tôi nghĩ sớm lắm
cũng là năm 1948. Bây giờ là 1998, vừa tròn 50 tuổi. 50 năm bao nhiêu tang
thương, đau khổ và 50 năm đó với cậu học trò Trần Bích Lan cũng đã trải qua bao
chặng đường. Sinh viên du học, đi lại trên các con đường của Paris, của vườn
Lục Xâm Bảo để, như nhà văn Pháp A.France, đã thấy lá vàng từng trận mưa trên
vai các các pho tượng đá. Ở đây, anh đã đi chơi với Nga, để rồi có những lúc
thấy
Hôm nay
Nga buồn như một con chó ốm
Như con
mèo ngáy ngủ trên tay anh
Như con
cá ươn sắp sửa se mình
Để anh
giận sao chả là nước biển.
Mối
tình riêng ấy, những rung cảm đầu đời ấy đã làm cho Nguyên Sa thi sĩ lừng lẫy
suốt mấy thập niên qua. Đồng thời với người thơ tình lạng mạn ấy, một giáo sư
triết học khó có người sánh kịp. Năm 1960 anh đã là giáo sư Triết (hay trước
nữa?) của trường Chu Văn An và các trường trung học khác. Học trò năm chót
trước khi vào đại học, đa số học trò chỉ thua anh vài tuổi. Có nhiều người vì
hoàn cảnh chiến tranh đi học lại, thì lớn tuổi hơn "Thầy Lan" khá xa,
5, 7 tuổi là thường. Cũng thời gian ấy, đất nước mỗi lúc mỗi thêm chìm ngập
trong lửa đạn, oán thù, và kéo hút theo bao nhiêu là người trai của thời cuộc,
trong đó có bao nhiêu người là học trò của anh. Họ có mặt khắp nơi từ binh
chủng này, binh chủng khác. Và cả chính anh, giáo sư Trần Bích Lan cũng bị gọi
vào quân đội. Đi sau, anh có trên vai một cái cúc vàng còn gắn Alfa, chuẩn úy
và tòng sự tại Đại đội Chung sự. Ở đây anh đã gặp lại một số học trò cũ. Gặp họ
anh phải giơ tay chào vì họ đi lính trước. Và họ lại cúi đầu “Thưa thầy”. Nhưng
đau đớn hơn hết, chính ở nơi này, cái bến cuối cùng của cuộc sống anh phải
nhìn, lạnh ngắt và nhiều khi chỉ là một bố poncho lụn vụn thịt xương. Các thi
hài ung máu đó, giữa những vật vã đau đớn của thân nhân, của nến trắng, giải
khăn xô dài ai đã là học trò của anh giáo sư Trần Bích Lan.
Rồi
cuộc đời sập xuống, tháng 4 năm 1975 ào đến, lớp lớp người đã đổ xô ra biển,
tìm mọi cách rời khỏi Việt Nam. Trong số đó có anh, Trần Bích Lan. Trần Bích
Lan trơn tru và nhẵn tay. Người thơ, người của Triết học bây giờ “Thi sĩ qua Mỹ
làm Thợ Điện”:
Ta vô
dòng điện hai chiều
Xẹt
ngang cũng đủ cháy vèo thịt da
Em nằm
ngay chỗ điện ra
Chỗ
đuôi con mắt đèn hoa muôn màu
Nghề
thơ anh bỏ đã lâu...
“Nghề
thơ anh bỏ đã lâu”, ấy là lúc đầu nghĩ thế. Sau anh trở lại với văn chương, với
thơ Những bài thơ của người xa xứ. Những bài thơ vướng vất nỗi đau chung. Những
bài thơ nhớ bạn bè. Và nhiều hơn hết là những bài thơ chất chứa nỗi chia lìa,
bịnh hoạn, của khung cảnh nhà thương:
Cửa
biển vào đầy gian phòng
Từng
giọt nước mặn chạy vòng tới tim
Ta mơ
hồ thấy giọt quen
Giọt
thơ tuổi trẻ, giọt em ngày nào.
Nỗi ám
ảnh ấy đầy ắp trong thơ Nguyên Sa ở tập 3 “Ta đang đi kiếm chỗ nằm. Mưa rơi
nặng hạt đúng tầm sân sau”. Có lúc như ôn lại cả một cuộc đời với bao tên tuổi,
anh viết:
Em ơi
ngựa đã qua đèo
Những
tên cùng tuổi cho vèo lá bay
Vâng,
thì bây giờ anh đã ra đi. Tất cả quả nhẹ nhàng như một chiếc lá. Nhưng qua
những bài thơ anh để lại, tôi thấy có một sự khác biệt trong anh. Xưa anh viết
những bài thơ tự do, như bài "Nga" (đã dẫn). Bây giờ anh như tìm lại
cái vần điệu rất trữ tình, đầy Việt tính. Anh làm thơ lục bát rất nhiều, và bài
nào cũng hay. Lời thơ nhẹ, hình ảnh đẹp và tình ý nồng nàn:
Con
sông vẫn chưa có chồng
Sương
hôm nay vẫn vậy, thích nằm quanh co
Ta cong
mình xuống bãi xa
Con
sông thấy lạnh bước qua nằm cùng
Phải
chăng một người lớn lên tại Hà Nội, thành phố bốn mùa thay đổi. Sau cái nắng oi
ả của tháng hè, một cơn gió nhẹ đêm qua thổi về, Hà Nội đã se lạnh. Hồ Gươm,
mặt hồ đã đầy sương phủ. Sông Hồng quằn quại phù sa, một buổi Đông về, đã lưng
trời mây bạc ... Những cảnh trí ấy đã tiềm ẩn nơi con người tưởng đi tìm cái
mới từ cõi xa đem về, nay đã trở lại với cái hồn nắng gió của quê cũ. Năm xưa,
trong tập thơ đầu tay của anh, có một đoạn thô suôi, tôi cho là Nguyên Sa nhất
nếu tôi nhớ không sai như thế này:
Tôi đến
đây không ai mời
Khi đi
cũng xin đừng ai giữ
Còn
nhớ, có thương, có tạc tượng bằng đá trắng đồng đen
Xin
đừng bày ở sân trường đại học
Mà bày
đùm ở một góc công viên
Để
những đêm rất khuya
Nhìn
một trăng soi gương
Và
những người yêu nhau tình tự.
Tôi yêu
mấy câu này quá. Vừa có cái cao ngạo của một người thành công trẻ, vừa có cái
chất lãng mạn của người còn đang yêu. Bài thơ ấy đã có mặt tại Sài Gòn có lẽ ở
những năm cuối thập niên 50 thì phải. Vâng, giờ anh đã đi xa. Anh đi lặng lẽ.
Kẻ thương tiếc anh ở bốn phương cũng lặng lẽ nhớ về. Tôi được tin anh mất trong
xúc động nhưng không đột ngột, vì anh bị bệnh đã lâu. Ung thư cổ. Chỉ tiếc,
tiếc lắm, tôi chưa có dịp như anh mời, và tôi đã hứa, là lên thăm anh một buổi.
Tôi đã có một số ảnh của Hà Nội, trong đó có ảnh Nhà Hát Lớn, và đặc biệt tấm
ảnh của chính ngôi nhà anh. Vậy mà tôi đã lỡ. Dù từ nhà tôi ở lên anh chỉ có
một giờ xe. Tôi tiếc mà không thể giữ anh ở lại vì anh đã có nói rồi “Tôi đi
cũng xin đừng ai giữ” Anh đi nhé. Hà Nội còn giữ hẳn ở giữa lòng anh. Sông Hồng
đang giữa mùa nắng đỏ. .
Thôi
xin vĩnh biệt Nguyên Sa
Phan Lạc Tiếp
No comments:
Post a Comment