HAI
NGÀY GÁC Ở NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI
Đầu
tháng 12/1972, tôi đang học giai đoạn 2 quân sự (học chỉ huy cấp trung đội)
thuộc
khóa
3/72 sinh viên sĩ quan (SVSQ) Trường Bộ binh Thủ Đức, thì được lệnh dừng huấn
luyện
để cùng các khóa khác đi chiến dịch giành dân trước ngày Hiệp định Paris có
hiệu
lực
(27/1/1973). Song vì tôi nằm trong danh sách 60 SVSQ khóa 3/72 đã trúng tuyển
sức
khỏe
phi hành, nên không phải đi chiến dịch, mà ở lại gác doanh trại và chờ ngày chuyển
sang
Không quân để học lái máy bay.
GÁC
XÁC ĐỒNG ĐỘI
Nếu
trừ 60 người ở lại chờ sang Không quân, thì khóa tôi có hơn 700 SVSQ đi chiến
dịch,
mỗi SVSQ về một ấp, ăn ngủ tại trụ sở xã, ban ngày SVSQ cùng trưởng ấp và vài
lính
Nghĩa quân đi vào từng xóm, để giải thích Hiệp định Paris sẽ ngừng bắn vào ngày
27/1/1973.
Lúc đó, chỗ nào của quân đội VNCH kiểm soát là phần đất quốc gia, cấm
quân
Mặt trận Giải phóng xâm nhập, đồng bào phải treo Quốc kỳ VNCH, nếu phía bên
kia
lén treo cờ MTGP thì đồng bào phải báo chính quyền, quân đội để hạ cờ. Đồng bào
không
được đi vào vùng của MTGP kiểm soát.
Ai
dè đúng một tuần sau khi đi chiến dịch, thì có tin báo về thằng Nhạn đã tử
trận. Nhạn
cùng
ông trưởng ấp và 2 lính nghĩa quân đi trên ghe máy vào xóm để tuyên truyền, khi
ghe
chạy qua đám dừa nước rậm thì bị trái lựu đạn ném lên ghe nổ, kèm theo hàng
loạt
đạn
AK bắn xối xả. Bốn người trên ghe đều tử trận.
Nhạn
cùng trung đội 3 (đại đội 34) với tôi, tôi nằm giường trên, nó nằm giường dưới.
Nhạn
con nhà giàu, đẹp trai, mặt vuông, cằm bạnh, đeo kiếng cận, giọng nói rổn rảng.
Nó
thường
ca nhạc chế bài Love Story: “Bởi bà già rắc rối, cuộc tình rối rắm, ôi biết nói
gì,
thì
đành nói dối…”. Nhìn tướng nó rất thọ, không có biểu hiện gì là chết yểu, trừ
một
điều
tôi phát hiện là một tuần trước khi đi chiến dịch, da mặt nó từ màu xạm đầy vết
lõm
mụn
bọc, bỗng dưng chuyển sang màu trắng xanh như người đau gan.
Nhạn
chết trận, ông nội Nhạn không cho quàng linh cữu Nhạn tại nhà ở Sài gòn, mà
quàng
Nhạn tại Nghĩa trang Quân đội. Trong đại đội 34 có 10 thằng ở lại chờ qua Không
quân
được xe GMC chở từ Thủ Đức lên nghĩa trang gác linh cữu Nhạn. Bọn tôi mặc đồ
tiểu
lễ màu vàng, đeo dây biểu chương, mỗi ca gác một tiếng gồm hai đứa bồng súng
chào,
đứng nghiêm như trời trồng ở đầu hòm. Bọn tôi thay phiên gác từ 7 giờ sáng đến
5
giờ
chiều thì xe GMC chở về Thủ Đức, sáng hôm sau xe chở lên gác tiếp.
Bấy
giờ là thượng tuần tháng 12/1972, chiến trường Bình Long và Kontum đã kết thúc,
Cổ
thành Quảng Trị đã tái chiếm, nhưng quân VNCH còn đánh tái chiếm vùng nam Sông
Thạch
Hản và vùng Cửa Việt với tổn thất nhân mạng lớn, nên Nghĩa trang Quân đội có
rất
nhiều quan tài tử sĩ. Nếu từ bên ngoài nhìn vào, phía tay phải khu nhà quàng có
khoảng
70 quan tài xếp thành 2 dãy của hạ sĩ quan, binh lính theo đạo Phật. Bên trái
nhà
quàng
có khoảng 50 quan tài của hạ sĩ quan, binh lính theo đạo Công giáo. Ở sảnh giữa
chỉ
có ba quan tài sĩ quan (một thiếu úy vinh thăng cố trung úy, một chuẩn úy vinh
thăng
cố
thiếu úy và Nhạn là SVSQ vinh thăng cố chuẩn úy).
DÂY
CHUYỀN AN TÁNG
Mặc
dù bên trong các quan tài đều được bọc thiết và hàn chì, nhưng mùi hôi vẫn xông
ra
nồng
nặc, do xác lính chở về đến đây đều sình thối. Nhìn số quân mới biết đa số các
anh
đều
còn rất trẻ, sinh từ năm 1954 đến 1952 (18-20 tuổi) và thuộc các bình chủng
thiện
chiến:
Nhảy dù, TQLC, Biệt động quân. Do quân đội VNCH tôn trọng tâm linh của tử sĩ,
nên
nghi lễ an táng tại Nghĩa trang Quân đội với thể thức rất trang trọng nhưng
không che
giấu
được những chi tiết thê lương! Bên dãy quan tài theo đạo Phật, vị sĩ quan tuyên
úy
Phật
giáo, mặc áo cà sa vàng, đầu cạo trọc, mẫn cán lần lượt đọc kinh cúng cơm trưa
và
cúng
cơm chiều từ quan tài này đến quan tài khác.
Vì
mùi rất hôi, nên tang gia của các tử sĩ đều không đến gần quan tài, mà ở tại
khu nhà
nghỉ
cách đó 100 mét. Khi đến lượt cúng cơm, nhà sư tụng kinh với hai người lính
Liên
đội
Chung sự đứng hầu hai bên bàn thờ, tang gia mới đến quỳ trước bàn vong. Khi
thầy
tụng
đến đoạn: “Kiềng tiền tửu châm, nhị tuần lễ nhị bái…” thì người lính hầu bưng
nhạo
rượu
châm thêm ba ly rượu trên bàn thờ và vợ con tử sĩ lạy 2 lạy. Phần lớn tử sĩ chỉ
có
người
vợ trẻ, bà mẹ trên tứ tuần và anh chị em ruột đến. Không hiểu sao it tử sĩ có
bố đến
dự,
một số vợ tử sĩ bồng con nhỏ trên tay với vành khăn tang. Khi thầy đọc dứt bài
kinh
cúng
cơm, hai người lính hầu bê cái bàn thờ sang quan tài kế bên, tang gia của quan
tài kế
bên
liền đến dời chiếc chiếu từ quan tài vừa tụng xong sang quan tài của người thân
để
quỳ.
Tang gia của quan tài vừa tụng xong khóc tức tưởi trên hành lang trở về nhà
nghỉ.
Một
vòng cúng cơm 70 quan tài phải mất 3 tiếng đồng hồ. Tôi thấy thương vị sư tuyên
úy
và
hai anh lính hầu phải chịu mùi hôi suốt 6 tiếng/ngày. Trong khi đó, bên phía 50
quan
tài
tử sĩ theo đạo Công giáo thì có nghi thức gọn hơn: Vị linh mục tuyên úy mặc áo
dài
thụng
màu đen, một tay cầm chén nước thánh, một tay cầm nhành hoa, rãi nước lên đầu
quan
tài, miệng đọc kinh, cũng có hai anh lính hầu đứng nghiêm chào. Một tour làm
phép
rửa
tội cho 50 quan tài như vậy chỉ mất một giờ. Tất cả quan tài đều phủ Quốc kỳ to
kèm
vành
khăn tang nhỏ, Quốc kỳ dành để vinh danh Tổ quốc, khăn tang để tạ tội vì chết
trước
cha mẹ các anh, tôi không cầm được nước mắt khi nghĩ đến ý nghĩa đó.
Bình
quân mỗi ngày, đội quân mai táng phải chôn phân nửa số quan tài đang quàng và
đội
quân tẫn liệm phải điền vào chỗ trống 60 quan tài mới. Liên đội Chung sự (lo
hữu sự
cuối
cùng cho binh sĩ) phụng sự tử sĩ từ lúc nhận xác đến lúc xây phần mộ. Cấp số
của
Liên
đội khoảng bằng đại đội, nhưng không gọi là đại đội vì binh sĩ gồm đủ sắc lính:
Một
toán
lính quân nhu đóng hòm, một toán lính quân y rửa xác, cho vào bọc nylon và đưa
vào
ngăn lạnh. Ngoài ra, mỗi binh chủng: Hải quân, Không quân, TQLC, Nhảy dù, Biệt
động
quân, Thiết giáp, Quân đoàn…phải cử hai hạ sĩ quan biệt phái về Nghĩa trang
Quân
đội
vừa để làm dàn chào đội quân danh dự, vừa nhận xác tử sĩ thuộc binh chủng của
mình
để
báo cáo về đơn vị và trích quân bạ của tử sĩ đó để viết điếu văn. Tất cả các
quân nhân
biệt
phái đó đều dưới quyền chỉ huy của viên trung úy Liên đội trưởng, nếu tôi nhớ
không
lầm
tên ông là Xuân.
PONCHO
BUỒN PHỦ KÍN ĐỜI ANH.
Trung
úy Xuân xuất thân từ trường Sĩ quan Thủ Đức nên rất mến khóa đàn em tụi tôi.
Tôi
là
thằng vốn hiếu kỳ, nên ngoài giờ gác hay đi theo trung úy Xuân để biết hết các
khâu
vận
hành của Nghĩa trang. Đa số xác tử sĩ tử trận ở Vùng III được đưa đến bằng xe
GMC
bít
bùng (vì gần), Các tử sĩ ở Vùng 1, II, IV (xa) đều được tẫn vào quan tài và chở
bằng
máy
bay C.130 về Tân Sân Nhất, rồi xe GMC chở về nghĩa trang. Một số xác tử sĩ ở
Vùng
III nếu có dịp được chở về bằng trực thăng UH. Nghe tiếng trực thăng hạ thấp,
trung
úy Xuân rủ tôi ra bãi đáp nhận xác. Anh cơ phi trực thăng cho biết, một trận
đánh ở
Hậu
Nghĩa đến ngày thứ ba mới lấy được 5 xác tử sĩ này ra. Xác được bọc kín bởi
Poncho
(dùng làm áo mưa, làm võng, nếu ghép 3 cái thì thành lều chung cho 3 binh sĩ)
và
được
buộc bằng dây dù vào băng ca. Do xác sình và bọc kín, nên Poncho phồng lên,
những
chỗ buộc dây dù thì khuyết lõm xuống, trông giống như đòn bánh tét mới nấu
chính.
Tôi
không biết, trước khi NS Phạm Duy phổ thơ bài "Kỷ vật cho em" hay thi
sĩ Linh
Phương
sáng tác bài thơ này, đã có nhìn thấy cảnh tượng này không, mà viết lời thơ, ca
quá
chính xác: “Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả - Anh trở về, có khi là
hòm
gỗ
cài hoa - Anh trở về trên chiếc băng ca - Trên trực thăng sơn màu tang trắng
(trực
thăng
cứu thương sơn màu trắng có chữ thập đỏ) - Anh trở về chiều hoang trốn nắng -
Poncho
buồn liệm kín hồn anh…”
10
người lính của trung úy Xuân khiêng 5 băng ca vào phòng tắm xác. Cơ phi trực
thăng
chạy
vào kho lấy 5 băng ca đã rửa và sấy khô đem lên trực thăng, giống như người
uống
xá
xị phải trả lại vỏ chai. Tại phòng rửa xác, các anh lính mang khẩu trang dùng
dao cắt
đứt
dây dù, rồi tưới nước compound và dùng vòi nước cực manh phun vào Poncho bung
ra,
một vài con còng núp dưới lớp poncho bị nước bắn lên cao. Sau khi xác tử sĩ
sạch
máu
me, các anh lính chung sự dùng dao, kéo hớt quân phục rất chật ra, rồi phun
"bọt
tuyết"
lần nữa cho xá nude sạch, mới cho vào túi nylon và đưa vào ngăn lạnh. Trung úy
Xuân
cho biết, từ năm 1966 (khi bắt đầu nhận xác trận Đồng Xoài) đến trước Tết Mậu
Thân
xác tử sĩ về ít, nên bên quân y còn lấy da thịt từ chỗ kín đem vá đắp các vết
thương
hở
lớn ở chỗ dễ nhìn thấy trên thi hài tử sĩ để thân nhân nhìn bớt đau lòng. Còn
bây giờ
xác
nhiều, quá vết thương ra sao cứ để vậy.
Các
hạ sĩ quan biệt phái có trách nhiệm lấy thẻ bài của tử sĩ cùng binh chủng và
báo về
đơn
vị. Đơn vị trưởng báo về Bộ Tổng tham mưu để ký quyết định thăng cấp và tặng
huy
chương
cho tử sĩ, đồng thời báo về tiểu khu nơi thân nhân tử sĩ cư ngụ. Tiểu khu có
trách
nhiệm
lấy xe chở thân nhân tử sĩ đến Nghĩa trang quân đội. Liên đội Chung sự phát
mùng
mền
chiếu gối lẫn đồ tang cho thân nhân tử sĩ, cấp thức ăn cho thân nhân (món ngon
giống
đám giỗ). Sau khi ổn định chỗ ăn ở, thân nhân được đưa xuống phòng lạnh nhận
xác
tử sĩ để liệm theo ngày giờ mà thân nhân đã xem bói. Xác nào mất thẻ bài hoặc
có thẻ
bài
nhưng để lâu quá mà thân nhân chưa đến nhận thì cũng đưa ra liệm và chôn theo
nghi
thức.
Vì vậy, có những quan tài đề tên rất lạ như: “Phi hành đoàn C.47”. Trung úy
Xuân
cho
biết, khi lính hành quân vào mật khu, phát hiện có 5 cái sọ nằm gần xác máy bay
C.47,
không thấy xương thân thể, không thấy thẻ bài, bèn nhặt về giao Nghĩa trang.
Trung
úy Xuân cho bỏ 5 sọ vào chung một quan tài coi như tạm liệm, và báo cho Không
quân
sưu tra, chiếc C.47 rơi tại tọa độ đó là phi vụ nào, hồi năm nào, mới biết phi
hành
đoàn
tên gì? Có một quan tài gắn hình một cô gái cười tươi rất đẹp, tôi tưởng là nữ
quân
nhân,
ai dè Trung úy Xuân giải thích, trong túi áo tử sĩ có tấm ảnh cô gái này, nhưng
trong
bóp tử sĩ lại không có ảnh anh ta, mà thân nhân chưa đến nhận, nên anh em tẫn
liệm
tạm
lấy hình người yêu gắn ở đầu hòm mong vong linh tử sĩ tạm vui.
Vì
chỉ huy các tử sĩ đều ở chiến trường, nên trung úy Xuân phải thay mặt chỉ huy
tử sĩ
đọc
quyết định thăng thưởng huy chương - cấp bậc và đọc điếu văn. Một ngày chôn 60
tử
sĩ,
trung úy Xuân phải đọc 60 quyết định thăng cấp, 60 quyết định tặng huy chương
và 60
điếu
văn ngắn. Do các quyết định đều do Bộ tổng tham mưu ký, nên theo hệ thống quân
dai,
trung úy Xuân phải thừa lệnh nhiều nấc: "Thừa lệnh đại tướng Tổng tham mưu
trưởng,
thừa lệnh trung tướng tư lệnh quân đoàn, thừa lệnh chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn,
thừa
lệnh đại tá tiểu khu trưởng tiểu khu Biên Hòa, tôi trung úy Xuân xin đọc quyết
định,
đọc
điếu văn…". Sau khi trung úy Xuân đọc điếu văn, một phút mặc niệm bắt đầu,
ba
lính
quân nhạc thổi bài Exodus bằng kènTrumpet và 12 người lính chung sự bồng súng
chào
ở hai bên hòm. Lúc hạ huyệt cũng với tiếng kèn đưa tiễn, 12 người lính bắn 12
phát
súng
chỉ thiên. Có những bà vợ trẻ, bà mẹ tứ tuần đòi nhào xuống huyệt chết theo
chồng
mình,
con mình. Tôi đứng nghiêm đưa tay lên chào tử sĩ không quen biết lần cuối mà
không
cầm được nước mắt.
Hai
ngày ngày gác ở Nghĩa trang, tôi mới thấy được thi thể không lành lặn của người
lính
hy
sinh và thấy được nỗi đau của những người vợ trẻ, mẹ trẻ. Nhân 40 năm kỷ niệm
ngày
30/4,
tôi bên thua cuộc, trong số một triệu người buồn trong ngày này như ông Võ Văn
Kiệt
nói, xin viết bài này kính mong Bên thắng cuộc hãy mở lòng từ bi, hỷ xả cho Nghĩa
trang
quân đội được tu bổ và tồn tại để một triệu người buồn đỡ tủi nhục.
No comments:
Post a Comment