Vũ Linh 227: TT KENNEDY VÀ VIỆT NAM
https://diendantraichieu.blogspot.com/2022/04/bai-227-tt-kennedy-va-viet-nam.html#more
Tuần lễ tới, từ 21/4 tới 28/4 đánh dấu đúng 47 năm tuần lễ cụ Trần Văn
Hương làm tổng thống VNCH. Nhân đây, tưởng cũng nên coi lại vai trò của Mỹ
trong lịch sử cận đại của nước ta.
Hơn cả TT Johnson và TT Nixon, TT Kennedy có vai trò lịch sử có thể nói
quan trọng nhất đối với VN vì ông chính là người đã mở màn việc Mỹ can thiệp
vào VN, đồng thời cũng là người đã lấy những quyết định với hậu quả trầm trọng
nhất cho số phận VNCH khi ký hiệp ước trung lập hóa Lào và hậu thuẫn cuộc đảo
chính đổi đời năm 1963.
Bài này đã được đăng trên DĐTC cách đây 4 năm, tháng 4/2018, xin phép
được đăng lại -với nhiều chỉnh sửa- để nhắc nhở lại một thời kỳ đen tối của lịch
sử, đã là bước đầu trong cuộc tuột dốc của cả nước, để cuối cùng đưa đến thảm
họa 30/4 khi chính nghĩa quốc gia và tương lai đầy hứa hẹn của chúng ta bị mất
vào tay lũ sâu bọ.
Phải nói ngay là kẻ này chuyên viết về chính trị Mỹ vì đã có quá nhiều chuyên
gia rành rẽ vấn đề VN gấp vạn lần, viết mỗi ngày không biết bao nhiêu chuyện
trên các báo và diễn đàn tị nạn rồi. Trong phạm vi bài này, kẻ này chỉ muốn bàn
về vai trò của Mỹ và những quyết định của một tổng thống Mỹ thôi.
Trước hết, ta coi lại tình hình chung. Những năm từ sau khi Mao chiếm lục
địa Trung Hoa, lực lượng èo uột Việt Minh bất ngờ tái sinh qua viện trợ hùng
hậu về vũ khí cũng như nhân sự (cố vấn và cả lính) do TC chuyển qua. Tướng Giáp
tung ra những trận đánh lớn trong đồng bằng Bắc Việt theo chỉ đạo của các cố
vấn TC, nướng thanh niên Việt trong hỏa lực Pháp theo chiến thuật ‘biển người’
của Mao mặc dù xứ ta không đông dân như Tầu.
Pháp cũng sai lầm, tưởng nếu đánh những trận lớn, có thể diệt Việt Minh
được mà quên mất Hồng Quân của Mao. Tập trung lực lượng vào thung lũng Điện
Biên Phủ làm mồi nhử Giáp. Giáp nhẩy vào mồi thật. Để rồi Pháp bị vây hãm đe
dọa đại bại. Cầu cứu Mỹ, nhưng TT Eisenhower từ chối can thiệp mạnh vì không
được hậu thuẫn của Anh và những đồng minh Á Châu khác, cũng như sợ mang tiếng
giúp thực dân Pháp duy trì chế độ đô hộ.
Đưa đến thất thủ Điện Biên Phủ, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, sự
thành lập Đệ Nhất Cộng Hòa với TT Diệm, rồi cuộc chiến VN lần thứ hai.
Trong bối cảnh đó, sự can thiệp của Mỹ thật sự bắt đầu dưới thời TT
Kennedy.(DC-Blog ViSa)
Năm 1960, TNS John Kennedy đắc cử tổng thống. Trong lúc bàn giao, TT
Eisenhower (CH-Blog
ViSa) giải thích tình hình Đông Dương cho
Kennedy, đặc biệt nhấn mạnh tính then chốt của xứ Lào. Theo ông, bằng mọi giá,
phải giữ Lào, không thể để lọt vào tay CS Pathet Lào, cũng không thể trung lập
hóa được vì CSBV chắc chắn sẽ không tôn trọng nền trung lập này. Lào chính là
cửa ngỏ vào miền Nam, Căm Pu Chia và Thái Lan. Mất Lào, cả vùng bị đe dọa nặng
ngay. Thuyết 'domino' thật sự bắt đầu từ Lào.
Tân TT Kennedy không chia sẻ quan điểm đó. Ông cho rằng nơi Mỹ cần bảo vệ
tới cùng không phải là Lào vì trên phương diện quân sự, Mỹ không thể đánh nhau
ở Lào được. Đất chiến lược là Nam VN với cả ngàn cây số duyên hải mà hạm đội Mỹ
có thể bảo vệ và dùng để đổ quân hay rút lui được. Chẳng lẽ ở đây, ông trung úy
hải quân Kennedy có lý hơn ông đại tướng Eisenhower?
Tại Lào, TT Kennedy tin tưởng một thể chế trung lập với sự hậu thuẫn của
Liên Xô sẽ bảo đảm Lào thành trái độn ngăn cản CSBV chứ không phải là hành lang
của CSBV xâm chiếm Đông Dương. Ở đây, ông đã chịu ảnh hưởng nặng của thứ trưởng
Ngoại Giao Averell Harriman, là một chuyên gia về Nga. Ông Harriman tin tưởng
Liên Xô chú tâm vào việc bành trướng thế lực tại Đông Âu, sẽ không thể chấp
nhận một mặt trận mới tuốt bên Đông Nam Á chỉ có lợi cho Mao, do đó, Liên Xô sẽ
giúp bảo đảm nền trung lập của Lào và cầm chân CSBV. TT Kennedy vận động Nga để
rồi cuối cùng đẻ ra được hiệp định trung lập hóa Lào năm 1962. Một thể chế
trung lập quái đản, trao vào tay Pathet Lào, tức là CSBV, một nửa đông-nam của
lãnh thổ, giáp giới với CSBV, VNCH, và Căm Pu Chia, tức là để nguyên hành lang
chiến lược then chốt này cho CSBV sử dụng.
Đây là sai lầm chiến lược vĩ đại mang theo hậu quả cực kỳ tai hại cho
miền Nam VN của tân tổng thống trẻ không bao nhiêu kinh nghiệm. TT Eisenhower
đã đúng hoàn toàn khi tiên đoán CSBV sẽ không bao giờ tôn trọng trung lập của
Lào bất kể thái độ của Liên Xô, và sẽ chiếm Căm Pu Chia và VNCH qua ngã Lào không
sớm thì muộn.
Trong miền Nam, nhiệm kỳ của tân TT Kennedy cũng trùng hợp với sự ra đời
chính thức và lớn mạnh của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN, là công cụ của
CSBV.
Mặt Trận ra đời trong nhiều khó khăn, nhất là trong những năm 60-62,
không đạt được thành quả nào đáng kể ngoài việc ám sát các viên chức địa phương
cấp làng, xã, huyện,..., phá nền móng của guồng máy chính quyền Đệ Nhất Cộng
Hòa. Chưa kể kế sách Ấp Chiến Lược cũng đã thành công lớn mặc dù gặp nhiều khó
khăn, từ phá rối của VC cho đến bất mãn của nhiều nông dân. Cường độ chiến
tranh khi đó cũng chẳng ghê gớm gì lắm khi Mỹ chỉ có một vài ngàn cố vấn trong
khi CSBV thâm nhập khoảng vài trăm bộ đội mỗi tháng.
Năm 1963 là cái mốc đổi đời của VNCH. [Ở đây xin mở ngoặc: không
hiểu vì sự trùng hợp nào mà lịch sử VN trong thời kỳ ‘lộn xộn’ nhất, luôn là
những năm mà hai con số chót cộng lại thành… ‘9 nút’, đúng chu kỳ 9 năm: 1945
Việt Minh nổi đậy, 1954 chia đôi đất nước, 1963 đảo chánh TT Diệm, 1972 mùa hè
đỏ lửa đánh dấu CSBV công khai tham chiến tại Nam VN, với quân chính quy và cả
xe tăng, đại bác]
Cuộc chiến leo thang mạnh khi CSBV bắt đầu chuyển quân ào ạt vào miền
Nam, chẳng những qua hành lang Lào, mà còn qua ngã bến tàu Sihanoukville của
Căm Pu Chia khi ông Sihanouk nhắm mắt cho tầu Liên Xô, TC và BV chở súng lớn,
đạn dược, quân trang, quân dụng, dầu xăng, thuốc men,... cập bến Sihanoukville,
đồng thời cho VC dùng đất Căm Pu Chia làm căn cứ an toàn. Đổi lấy việc CSBV
không tích cực giúp Khờ-Me Đỏ gây rối loạn chống ông ta.
Năm 63 cũng là năm giới truyền thông Mỹ đổ bộ vào miền Nam và tin tức
chiến sự VN bắt đầu tràn ngập mặt báo và TV Mỹ. Hàng đoàn ký giả Mỹ thay vì chỉ
làm nhiệm vụ thông tin trung thực thì đều đã biến thành loại 'thanh niên xung
phong' chuyên gia xách động cho việc Mỹ chấm dứt can thiệp vào cuộc chiến.
Nghĩa là đồng minh lớn nhất của VC đã đổ bộ vào Sàigòn và công khai hoạt động
trong khi cả hai chính quyền Mỹ và VNCH chống mắt nhìn, nhân danh ‘tự do ngôn
luận’.
TTDC khi đó công khai lộ mặt thiên cộng, triệt để bôi bác miền Nam. Một
trăm bản tin về VN thì ít nhất cũng 90 bài bất lợi cho phiá VNCH và Mỹ. Đến độ
TT Kennedy mỗi lần nghe báo cáo tương đối tốt đẹp của tướng lãnh hay sứ quán Mỹ
ở Sàigòn đều lo lắng hỏi lại “vậy sao báo NYT (hay WaPo hay CBS,...) nói
khác?”.
Năm 63 cũng là năm nổ bùng ra biến cố Phật giáo miền Trung.
TT Diệm có đại công với đất nước khi đã thành công xây dựng nền móng vững
chắc cho một VNCH tương đối thịnh vượng và hùng mạnh từ đống tro tàn do
thực dân Pháp để lại, nhưng ông cũng đã phạm nhiều sai lầm lớn sau đó, đưa đến
việc mất lòng dân rất nhiều, cuối cùng đi đến đảo chánh. Việc dân chúng xuống
đường biểu tình chống TT Diệm trong vụ Phật giáo và sau đó vui mừng xuống đường
hoan nghênh Cách Mạng 1/11 là những dữ kiện lịch sử, không thể chối bỏ, viết
lại được. Nói các tướng lãnh “ăn tiền của Mỹ, phản ông Diệm, đi ngược ý dân” là
viết lại lịch sử, không công bằng với các tướng lãnh, với quân lực VNCH, và với
lòng dân khi đó.
Khủng hoảng Phật giáo đã có tác động cực kỳ bất lợi cho cuộc chiến của
VNCH nói chung và cho TT Diệm nói riêng. Biến cố Phật giáo khởi đi từ một xung
đột có tính địa phương không quan trọng, nhưng đã bị ba thế lực khai thác triệt
để:
- Thứ nhất là một vài lãnh tụ Phật
giáo với tham vọng chính trị cá nhân quá lớn (xin nhắc lại: không phải là cả
khối tín đồ Phật giáo hay đại đa số tăng sĩ, mà chỉ là một nhúm ‘sư hổ mang’
đếm trên đầu ngón tay!);
- Thứ nhì là cánh diều hâu Mỹ muốn
nhân cơ hội, loại trừ TT Diệm để nắm quyền trực tiếp điều khiển chiến tranh;
- Thứ ba dĩ nhiên là VC, khỏi cần
bàn thêm.
TT Diệm, một người nhân hòa, đạo đức, không mánh mung xảo quyệt, cho dù
với sự giúp đỡ của ông em mưu mô, vẫn không đủ khả năng đối phó với ba thế lực
lớn đó. TT Diệm đã thất bại không chứng minh được cho cả nước và cả thế giới
thấy rõ những thế lực đang bóp méo và khai thác khủng hoảng. Đã vậy TT Diệm đã
đối phó một cách vụng về trên phương diện tâm lý quần chúng Việt, Mỹ cũng như
cả thế giới, bàng hoàng trước hình ảnh các vị sư tự thiêu cũng như sinh viên và
bà lão xuống đường biểu tình, tay không kéo hàng rào kẽm gai trước họng súng
của Cảnh Sát Dã Chiến, trong khi TTDC Mỹ thời đó lại mô tả ông như một quan lại
độc đoán của thế kỷ trước, kỳ thị Phật giáo, trị nước dựa trên gia đình (ông anh
NĐThục và hai ông em NĐNhu và NĐCẩn) và một nhúm thân tín trong đảng Cần Lao.
Trầm trọng hóa vấn đề hơn tất cả các yếu tố trên là năm 63 cũng là năm TT
Kennedy rất sợ tin xấu vì ông chuẩn bị tái tranh cử trong năm 64. Chúng ta ở Mỹ
lâu năm, có thể hiểu rõ chính trị gia Mỹ đều sống, nói và làm vì bầu cử hết.
Trong tình trạng đó, TT Kennedy không thể nào không điên đầu vì những tin xấu
từ miền Nam chạy lên TV và báo Mỹ suốt ngày, được pha thêm cả lô mắm muối của
các nhà báo thiên tả như Peter Arnett, Malcolm Browne và nhất là David
Halberstam.
TT Kennedy nhìn thấy rõ hai lựa chọn của ông: một là phủi tay, chấm dứt
mọi can thiệp, và hai là can thiệp mạnh hơn. Nhất chín nhì bù, không có giải
pháp lằng nhằng ở giữa.
Giải pháp rút lui ngay khó làm được vì Mỹ vẫn còn bị ám ảnh bởi thuyết
domino, sẽ mất hết cả Đông Nam Á nếu bỏ Nam VN, chưa kể TT Kennedy bị ấm ức bởi
hình ảnh một tổng thống yếu đuối bị Khrushchev coi thường tại Cuba và trong
cuộc gặp mặt tay đôi tại Áo, cũng như viễn tượng phải tranh cử chống ông diều
hâu Nixon trong kỳ bầu cử tới. Trong khi giải pháp can thiệp mạnh lại chỉ có
thể thực hiện được nếu loại bỏ anh em Diệm-Nhu vì TT Diệm không chấp nhận một
sự can thiệp sâu hơn của chính quyền Mỹ.
Ở đây không phải chỉ là việc TT Diệm bác bỏ ý kiến đổ bộ lính Mỹ vào
chiến trường VN, mà còn là việc ông chống lại ý định gia tăng kiểm soát cuộc
chiến quân sự cũng như kiểm soát chính trị và kinh tế. Người Mỹ với thái độ tự
tin nếu không muốn nói là tự cao tự đại cố hữu, luôn luôn muốn nắm phần quyết
định trong mọi hình thức hợp tác. Họ muốn nắm quyền quyết định quân sự, nắm
luôn hầu bao viện trợ quân sự và kinh tế, đồng thời ép TT Diệm thi hành những
cải tổ chính trị và xã hội theo ý của họ, bất kể mọi khác biệt văn hóa và lịch
sử giữa VN và Mỹ. Những yêu sách quá lớn mà TT Diệm là người ái quốc và có tinh
thần tự trọng dân tộc thật lớn, cương quyết không nhượng bộ.
Nhìn lại toàn bộ những gì xẩy ra trong năm 63, ta có thể hiểu được phần
nào sự lớn mạnh của phe chống TT Diệm trong nội các Kennedy. Ngay từ dưới thời
TT Eisenhower, trong chính phủ Mỹ cũng đã có hai khuynh hướng tranh cãi nhau
suốt ngày.
Một bên là khuynh hướng ủng hộ TT Diệm tuyệt đối vì theo họ, TT Diệm đã
đạt được thành công lớn trong những năm đầu, ổn định được tình trạng rối bời do
Pháp để lại, là người có những đức tính và khả năng hơn tất cả mọi chính khách
khác, tức là không thể thay thế được. Đây là cánh PTT Johnson, đại sứ Nolting,
tướng tư lệnh Harkins, bộ trưởng Quốc Phòng McNamara, giám đốc CIA McCone, và
bộ trưởng Tư Pháp Robert Kennedy (ông Robert Kennedy khi đó còn ‘diều hâu’
nặng, qua đến năm 1967 thì ông chuyển hướng muốn Mỹ rút về ngay, ra tranh cử
chống TT Johnson nhưng bị ám sát chết). Bên kia là cánh ‘ngoại giao’ của ngoại
trưởng Dean Rusk, ông Harriman, với ông thứ trưởng Ngoại Giao Hilsman, đại sứ
Cabot Lodge, và phần lớn các thượng nghị sĩ và dân biểu DC, cho rằng TT Diệm
qua ảnh hưởng xấu của ông Nhu, đã trở thành một nhà độc tài chỉ mang hại cho
cuộc chiến chống CSBV. Họ chủ trương bằng mọi giá phải ép TT Diệm loại trừ ông
cố vấn Nhu, nếu cần thì loại trừ luôn cả TT Diệm, kể cả việc dùng biện pháp đảo
chánh bằng quân đội.
TT Kennedy ban đầu giữ thái độ trung lập vì khi còn là thượng nghị sĩ
dưới thời TT Eisenhower, ông đã là một trong những người hậu thuẫn mạnh việc
đưa ông Diệm về nước làm thủ tướng. Nhưng bây giờ thì ông càng ngày càng thấy
nhiều khó khăn, nhất là qua truyền thông bôi bác mỗi ngày khiến tinh thần ông
bị chao đảo, cũng như biến cố Phật giáo mà ông thấy khó bào chữa.
TT Kennedy tuy trẻ tuổi, nhưng lại là cáo già chính trị, bổ nhiệm ông
Cabot Lodge làm đại sứ với toàn quyền quyết định mọi chuyện trực tiếp với tổng
thống. Ông Lodge là ứng cử viên phó của ông Nixon. Liên danh Nixon-Lodge vừa bị
liên danh Kennedy-Johnson hạ. TT Kennedy bổ nhiệm ông đối lập CH Lodge để làm
mộc đỡ đạn CH cho ông, đồng thời cũng loại được một đối thủ cho việc tái tranh
cử năm 1964 của ông.
Về phiá VNCH thì một số tướng lãnh đã rục rịch tính chuyện đảo chánh, lật
đổ TT Diệm vì họ cho rằng ông này đã thất bại, mất hậu thuẫn dân, khiến VC ngày
càng lớn mạnh, đe dọa đến sự tồn vong của cả miền Nam. Có tin không kiểm chứng
được là ban đầu có tới ba nhóm âm mưu đảo chánh: trung tướng Trần Văn Đôn,
trung tướng Trần Thiện Khiêm, và đại tá Đỗ Mậu, rồi sau đó, cả ba nhóm hợp nhất
lại dưới quyền trung tướng Dương Văn Minh. Nhưng các tướng cũng chỉ có thể đảo
chánh nếu nhận được bảo đảm của Mỹ, kiểu như sẽ không can thiệp cản trở đảo
chánh, hay nếu đảo chánh thành công, sẽ tiếp tục nhìn nhận chính quyền mới và
tiếp tục hậu thuẫn cuộc chiến chống CSBV. Chứ nếu đảo chánh xong, Mỹ rút đi
không yểm trợ cho cuộc chiến thì nguy nặng vì VNCH sẽ không thể nào đương đầu
được với CSBV vẫn nhận được viện trợ quân sự hùng hậu từ khối Liên Xô và TC.
Hậu thuẫn đó đến tay các tướng qua công điện số 243 ngày 24/8/63 của
thứ trưởng Hilsman, đúng ba ngày sau khi ông Nhu ra lệnh Lực Lượng Đặc Biệt tấn
công các chùa ngày 21/8, và hai ngày trước khi ông Lodge chính thức trình ủy
nhiệm thư đại sứ. Ngày đó là ngày cuối tuần, hầu hết nội các đều đi khỏi Hoa
Thịnh Đốn, kể cả TT Kennedy đi biển Cape Cod, Massachusetts câu cá. Ông Hilsman
thảo công điện muốn gửi cho ông Lodge, nhưng cần TT Kennedy cho phép. Ông chỉ
thị cho phụ tá Forrestal đọc công hàm qua điện thoại cho TT Kennedy, xin chấp
nhận.
Đây là đoạn văn quan trọng nhất của ‘công hàm lịch sử’ (kẻ viết
tạm dịch):
“... chúng
ta phải cho cấp lãnh đạo quân sự [VN] biết nước Mỹ sẽ không
thể nào tiếp tục giúp đỡ chính phủ VN bằng quân sự và kinh tế trừ phi những
biện pháp trên [thoả mãn đòi hỏi của Phật giáo] được thi hành
ngay trong đó phải có sự loại bỏ ông bà Nhu. Chúng ta muốn cho Diệm mọi cơ hội
hợp lý để loại bỏ ông bà Nhu, nhưng nếu ông ấy ngoan cố, thì chúng ta phải sẵn
sàng chấp nhận hậu quả tất nhiên là chúng ta không thể tiếp tục hậu thuẫn Diệm.
Ông có thể cho cấp lãnh đạo quân sự [VN] biết chúng ta sẽ trực
tiếp hậu thuẫn họ trong thời gian chuyển tiếp khi guồng máy chính quyền trung
ương đổ vỡ”. (Phần trong ngoặc [...] là phụ chú của kẻ viết này)
Rõ ràng đây là chỉ thị cho đại sứ Lodge phải áp lực các tướng đảo chánh
lật đổ TT Diệm vì ai cũng biết không có cách nào TT Diệm chịu “loại bỏ” ông bà
Nhu hết.
TT Kennedy chỉ thị ông Forrestal phải xin ý kiến của các viên chức cao
cấp nhất trong nội các. Ông Forrestal tuân lệnh, một lúc sau gọi lại, cho biết
tất cả đồng ý, và TT Kennedy chấp nhận cho gửi công hàm. Ông Forrestal thật ra
đã nói láo. Ông chỉ thông báo và được sự chấp nhận của một mình ông Averell
Harriman.
Qua sáng Thứ Hai, họp nội các khẩn cấp, bộ trưởng QP McNamara, giám đốc
CIA McCone, và cựu đại sứ Nolting kịch liệt phản đối, và xác nhận họ không hề
được hỏi ý về công hàm này. TT Kennedy họp ba ngày liền. Hai phe tranh cãi kịch
liệt. TT Kennedy ban đầu tức giận muốn cách chức hai ông Hilsman và Forrestal,
nhưng sau ba ngày tranh cãi, đã đổi ý. Lý do chính là nội dung công hàm đã được
đại sứ Lodge thông báo cho các tướng lãnh ngay sau khi nhận được rồi. Ông Lodge
chủ trương loại bỏ ông Diệm nên mau mắn chụp cơ hội ông Hilsman tặng. TT
Kennedy đành chấp nhận.
Qua ngày 29/8/63, TT Kennedy gửi một công điện tuyệt mật, chỉ cho đại sứ
Lodge đọc, xác nhận chỉ thị đảo chánh TT Diệm, để giữ thể diện, chứng minh đã
không có mâu thuẫn trong nội các.
Nhưng qua ngày hôm sau, TT Kennedy lại đổi ý, vì lo ngại phe đảo chính
thất bại vì lực lượng phòng thủ Sàigòn khi đó nằm trong tay tướng Tôn Thất
Đính, là người của TT Diệm. Đại sứ Lodge trả lời lại là các tướng lãnh VN sẽ
đảo chánh trong vài ngày tới, chậm nhất đầu tháng Chín, và ông nhấn mạnh với TT
Kennedy “Chúng ta đã lao mình vào một tiến trình không thể quay trở lại
trong tự trọng được”.
TT Kennedy trả lời lại là ông, với tư cách tổng thống, dành quyền quyết
định tối hậu, không có gì là “không quay trở lại được”. Dù vậy, Đệ Thất Hạm Đội
cũng được điều động tới lãnh hải VN, chuẩn bị di tản thường dân Mỹ ngay nếu có
đánh nhau lớn tại Sàigòn giữa phe đảo chánh và TT Diệm. Ngay sau đó, đại sứ Lodge
thông báo lại, cho biết tướng Dương Văn Minh đã hoãn kế hoạch đảo chánh, để có
thêm thời giờ thu phục tướng Đính. Kết quả đã đi vào lịch sử: tướng Đính sau đó
tham gia vào cuộc đảo chánh xẩy ra hai tháng sau, ngày 1/11/63.
Qua công điện trên, ta có thể thấy một cách rõ ràng là chính quyền
Kennedy đã chuyển qua giai đoạn tích cực áp lực các tướng lật đổ TT Diệm, chứ
không còn thụ động chấp nhận hay nhắm mắt cho các tướng đảo chánh. Phe ‘diều
hầu’ chống TT Diệm trong chính quyền Mỹ đã thắng.
Mấy chục năm sau, TT Johnson giải thích TT Kennedy đã bị ép vào thế phải
lật đổ TT Diệm vì sự chống đối quá mạnh của truyền thông đã ảnh hưởng bất lợi
trên dư luận quần chúng Mỹ.
Trong vấn đề này, có câu hỏi lớn là TT Kennedy có ra lệnh giết TT Diệm
không. Các tài liệu từ phiá Mỹ đều cho thấy TT Kennedy dường như hết sức ngỡ
ngàng và xúc động khi nghe tin TT Diệm đã bị giết, nghĩa là ông hoàn toàn không
ngờ chuyện này có thể xẩy ra, chứ đừng nói tới chuyện ra lệnh giết. Tất cả
những tài liệu này thật ra chỉ xuất phát từ phe muốn bào chữa cho TT Kennedy.
Câu chuyện nghe không có lý chút nào. TT Kennedy không dại gì công khai
hay chính thức ra lệnh giết thật, nhưng trong một cuộc đảo chánh bằng võ lực,
với bên đảo chánh huy động cả sư đoàn về bao vây đánh Dinh Gia Long, thật khó
tránh được thảm sát. Hơn nữa, cũng phải hiểu các tướng đã đặt sinh mạng mình
lên bàn cân thì khó có thể có giải pháp yên ổn cho TT Diệm được, nhất là khi
còn nhiều tướng có vẻ vẫn sẵn sàng nghe lệnh TT Diệm phản công lại như các tướng
Nguyễn Khánh trên Vùng II và Huỳnh Văn Cao dưới Vùng IV. Chưa kể lực lượng nhẩy
dù đang bực bội thấy đại tá tư lệnh Cao Văn Viên bị nhóm đảo chánh bắt giữ.
Nếu TT Kennedy ngỡ ngàng khi nghe tin TT Diệm bị giết thì một là ông quá
ngây thơ đến độ vô lý, hai là ông mần tuồng. Phải nói là khi ra lệnh cho đại sứ
Lodge xúc tiến giúp các tướng đảo chánh thì ông đã biết rủi ro ông Diệm bị giết
rất cao và ông đã chấp nhận rủi ro đó, cho dù có thể ông đã âm thầm cầu mong
cho TT Diệm được an toàn.
Cuộc đảo chánh năm 63 là một biến cố ‘đổi đời’, làm suy yếu nền
tảng chính trị và quân sự của chính quyền VNCH, với hậu quả rõ nét nhất là cấp
lãnh đạo quân sự VNCH cả mấy năm sau vẫn bận ‘chỉnh lý’ nhau, mỗi lần đều thay
đổi các tư lệnh và chỉ huy địa phương như chong chóng để củng cố vị thế cá
nhân, bất cần hậu quả trên cuộc chiến chống VC vì ỷ y cuộc chiến đã có Mỹ lo.
Lúc sau này, đã có những tranh luận có phải TT Kennedy đã muốn rút khỏi
Nam VN không. Phe cho rằng có, đã dựa trên việc TT Kennedy đã ra lệnh nghiên
cứu một kế hoạch rút khỏi Nam VN để ông cứu xét. Thật ra, việc ra lệnh này là
chuyện bình thường vì TT Kennedy muốn có kế hoạch cho mọi lựa chọn, không có
nghĩa ông muốn rút. Nếu muốn rút thật, thì không dại gì ông lại phải hậu thuẫn
đảo chánh cho rắc rối. Chỉ cần ngồi yên rồi ra lệnh bỏ lấy lý do rất chính đáng
ông Diệm đã mất lòng dân hay các tướng lo đánh lẫn nhau không lo đánh VC.
Nhìn vào những sự kiện lịch sử trên, ta thấy rõ ta thua không phải năm
75, mà đã thua từ năm 63 khi truyền thông thiên tả Mỹ đổ bộ vào miền Nam tiếp
tay cho VC xoay chuyển dư luận quần chúng Mỹ, và khi TT Diệm bị lật đổ, hay xa
hơn, thua từ năm 62 khi TT Kennedy phạm sai lầm chiến lược vĩ đại, ký hiệp ước
ngớ ngẩn ‘trung lập hóa’ Lào, biến hành lang Lào thành cả một hệ thống chằng
chịt ‘đường mòn HCM’.
Nếu TT Eisenhower có công lớn giúp TT Diệm gây dựng nên một nền tảng
tương đối thịnh vượng và hùng mạnh cho một miền Nam tự do và độc lập, thì TT
Kennedy lại là người đã lấy những quyết định cuối cùng đưa đến việc mất cả VN
vào tay VC. Trong lịch sử Mỹ, TT Kennedy có lẽ là tổng thống được đánh bóng,
thần tượng hóa quá đáng nhất, trong khi thực tế chỉ là một tổng thống ăn chơi
trác táng tầm thường, thất bại vì sai lầm từ Vịnh Con Heo ở Cuba tới
khủng hoảng hỏa tiễn nguyên tử với Nga, từ thỏa hiệp Lào tới đảo chánh TT Diệm.
ĐỌC
THÊM
Vì
đề tài Bình Luận tuần này là chuyện xưa, nên sẽ không có giới thiệu bài báo Mỹ
nào. Chỉ xin giới thiệu vài cuốn sách viết về TT Kennedy với vấn đề VNCH.
Xin
lưu ý sách về chiến tranh VN có cả chục ngàn cuốn. Diễn Đàn này chỉ có thể giới
thiệu vài cuốn có nhiều chi tiết liên quan đến chủ đề bài viết thôi.
- The Politics of Deception, JFK’s Secret
Discussions on Vietnam, Civil Rights and Cuba – Patrick Sloyan
- The Lost Mandate of Heaven –
Geoffrey Shaw
- Fire In The Lake – Frances
Fitzgerald
- The CIA, Vietnam and The Plot to Assassinate John
F Kennedy – L. Fletcher Prouty
- Listening In, The Secret White House
Recordings of John F Kennedy – Ted Widmer
- Death In November, America in Vietnam 1963 –
Ellen Hammer
- Vietnam, August – December 1963 –
Department of State (Tài liệu chính thức của bộ Ngoại Giao Mỹ, phần lớn liệt kê
các công văn chính thức giữa Hoa Thịnh Đốn và Tòa Đại Sứ Mỹ, kể cả một số công
văn của CIA)
- Chính Đề Việt Nam – Ngô Đình Nhu
- Huyền Thoại Kennedy – Vũ Linh viết trên
Việt Báo 26/11/2013:
https://vietbao.com/a213632/huyen-thoai-kennedy
No comments:
Post a Comment