Góp nhặt buồn vui thời điêu linh: Đốt sách
Nguyễn Ngọc Chính
Xuống đường Bài trừ Văn hóa Đồi trụy &
Phản động trong thời điêu linh
“Nơi nào người ta đốt sách thì họ sẽ kết thúc
bằng việc đốt sinh mạng con người”.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung
Hoa, thừa tướng Lý Tư đã đề nghị dẹp bỏ tự do ngôn luận để thống nhất chính kiến
và tư tưởng. Lý Tư chỉ trích giới trí thức dùng ‘sự dối trá’ qua sách vở để tạo
phản trong quần chúng.
Chủ trương Đốt sách, Chôn nho (Phần thư, Khanh nho) của Tần Thủy
Hoàng được thực hiện từ năm 213 trước Công nguyên. Qua đó, tất cả những kinh
điển từ thời Chư tử Bách gia (trừ sách Pháp gia, trường phái của Lý Tư) đều bị
đốt sạch. Lý Tư còn đề nghị đốt tất cả thi, thư, sách vở, trừ những quyển được
viết vào thời nhà Tần. Sách trong lĩnh vực triết lý và thi ca, trừ những sách
của Bác sĩ (cố vấn nhà vua) đều bị đốt. Những nho sinh dùng sử sách để chỉ
trích chính quyền đều bị hành hình. Những ai dựa vào chế độ cũ để phê phán chế
độ mới sẽ bị xử tội chém ngang lưng.
Lý Tư tấu: “Thần xin rằng sử sách không phải do Tần ghi chép đều
bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ thì trong thiên hạ không
ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu
dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà
chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm.
Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng
trường thành”.
Năm 212 TCN, Tần Thuỷ Hoàng phát hiện ở Hàm Dương có một số nho
sinh đã từng bình phẩm về mình liền hạ lệnh bắt để thẩm vấn. Các nho sinh không
chịu nổi tra khảo, lại khai ra thêm một loạt người khác. Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh
đem tất cả trên 460 nho sinh đó chôn sống ngoài thành Hàm Dương. Đốt sách, chôn
Nho là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó
cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn còn ghi nhớ. Không riêng gì người Hán mà
cả nhân loại lên án.
Trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lý Tư đều biết rất rõ,
lệnh đốt sách không thể nào xóa sạch những tư tưởng trong đầu óc dân chúng,
những cuốn sách ‘khó đốt’ nhất là nằm trong tinh thần con người. Như vậy, việc
đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chứ không tạo được tác dụng triệt để trong
việc xóa sạch vết tích văn hóa-chính trị như mong muốn.
***
Việt Nam vốn tự hào là quốc gia có hơn 4000 năm văn hiến, nhưng
sách vở của người xưa để lại thì rất ít. Nguyên nhân chính là vì quân nhà Minh
bên Tàu đã ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta để
dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Hoa từ năm 1953 đến
1966 cũng đã gây nhiều ảnh hưởng đến miền Bắc. Do đó, xét về mặt lịch sử, Việt
Nam đã trải qua rất nhiều thời kỳ sách vở bị tiêu hủy cho phù hợp với những
thay đổi qua các giai đoạn chính trị.
Trên thực tế, tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản Hà Nội, việc
kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng đã được thực
hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại sách báo đã in ra từ trước 1954 dưới
thời Pháp thuộc cũng đã bị đốt. Thế cho nên, việc đốt sách tại miền Nam năm
1975 chỉ là rập khuôn của chính sách cũ năm 1954.
Hồi ký của Một người Hà Nội ghi lại sự kiện đốt sách năm 1954 khi
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc: “Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi
tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2,
cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số
học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’,
nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô
dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục
lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập trung’
tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm
‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của bí thư Thành
đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản động!’. Vào lớp học với
những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”.
***
Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30/4/1975, việc
đốt sách được thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động. Tự
bản thân khẩu hiệu trong chiến dịch đã nêu rõ 2 mục đích: (1) về chính trị, bài
trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ và (2) về văn hóa, xóa bỏ
hình thức được coi là ‘đồi trụy theo hình thức tư bản’.
Một trong những việc làm cấp thiết của chính quyền mới khi miền
Nam sụp đổ là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của
nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí, Sống Mới, Độc
Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong và cấm lưu hành.
Đội ngũ những người cầm bút miền Nam phải nói là rất đông và bao
gồm nhiều lãnh vực. Về triết học phương Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn,
Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan… Triết Đông có Nguyễn Đăng
Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim
Định, Nhất Hạnh…
Phần biên khảo có Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn
Đức, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập, Phạm Thế Ngũ, Vương Hồng Sển,
Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng Văn Chí,
Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ,
Nguyễn Văn Sâm...
Về thi ca có Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm
Tưởng, Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhã Ca,
Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê.... Phê bình văn học có
Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh
Phan Anh...
Đông đảo nhất là văn chương với Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan,
Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Bình Nguyên Lộc, Mặc Thu, Mặc
Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn,
Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh
Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình Toàn, Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam,
Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng
Hải Thủy, Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong,
Diễm Châu, Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh...
Toàn bộ sách ấn hành tại miền Nam của những tác giả nêu trên (còn
một số người nữa mà người viết bài này không thể nhớ hết) đều bị ‘đánh đồng’ là
tàn dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản động và đồi trụy. Các cấp chính quyền từ
phường, xã, quận, huyện, thành phố ra chỉ thị tập trung tất cả các loại sách
vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến sách giáo khoa để hỏa thiêu.
Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến
vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy
quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài Gòn. Sách báo trên kệ sách trong
nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương
tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như
đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất nhiên,
những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt. Trong hồi ký Viết trên
gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến trong vụ đốt sách năm
1975:
“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên
bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng
đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ.
Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những
chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội.
Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng
mạng vong”.
Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với
câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại
núi e sông”. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long như Loan mắt nhung, Kinh
nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của tác giả, chúng được xếp vào
loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.
Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng Long) bị chính quyền mới coi như ‘một
trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương,
trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắt, Vẻ buồn tỉnh
lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam
không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung.
Vượt biển sang Pháp, Duyên Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần
hai mươi tác phẩm, trong đó có Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà
Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói
nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là
‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia’.
Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều
người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi lòng, có tựa đề là
Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những truyện ngắn, truyện dài
thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới dàn hoa thiên lý hoặc du côn du đãng
như Dzũng Dakao… Tất cả lần lượt được hóa kiếp bằng ngọn lửa.
Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên
mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau năm 1975 có đoạn viết:
“… Một số người như Duyên Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống
Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch
của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa
thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến
cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của
Mỹ.
Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống Cộng bằng văn nghệ của
đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ý thức. Ý thức đó biểu
hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới, chống lại
một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản...
Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương
tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi bút của mình phục vụ cho chế độ.
Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự
ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi
mình như một ‘viên kim cương, răng Cộng Sản không sao nhá được’...”
Trong vụ án được mệnh danh là Nhũng tên Biệt kích Cầm bút năm
1986, một số nhà văn ra tòa tại Sài Gòn với tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới
muốn dựng một vụ án điển hình để đe dọa các nhà văn miền Nam nhưng bất thành vì
áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức
án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ chung thân đến 20 năm),
Dương Hùng Cường (18 năm), Lý Thụy Ý (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm),
Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (10 năm) và Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc Tự (8
năm).
Tính ra Hoàng Hải Thủy (còn có bút danh Công tử Hà Đông, Con trai
bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó tìm đường vượt biên sang Mỹ. Tác
phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên các báo, truyện
phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ tuy đã già nhưng vẫn còn viết rất
hăng ở Rừng Phong (Virginia) trên blog
http://hoanghaithuy.wordpress.com/.
Những nhà văn như Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long
thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh việc viết văn. Trong lãnh vực báo
chí, Sài Gòn vẫn được coi là trung tâm của báo chí với những nhật báo lớn đã
xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn
Khai), Sài Gòn Mới của bà Bút Trà… Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự
Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong
quần chúng. Hoạt động báo chí ở Saigòn càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng,
đến tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.
Một đặc điểm của văn học miền Nam là việc hình thành các
nhóm văn học. Nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm Xuân Hồng,
Mặc Đỗ. Quan Điểm (cũng là tên nhà xuất bản do Mặc Đỗ điều hành) được người
đương thời gọi là nhóm ‘trí thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm của họ, trong những
ngày đầu chia cắt đất nước sau hiệp định Genève, thường có những nhân vật mang
nỗi hoang mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản trước ngã ba đường:
theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?
Theo Trần Thanh Hiệp, nhóm Sáng Tạo là một nhóm sinh viên hoạt
động trong Tổng hội sinh viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn Sĩ Tế,
Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Di cư vào Sài Gòn, họ tiếp
tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ (do Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm
Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai
Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội, rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng,
Duy Thanh, Quách Thoại.
Trên tạp chí Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên người ta còn
thấy Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa
sĩ Thái Tuấn. Sáng Tạo số đầu ra tháng 10/1956 và tạm ngưng ở số 27 (tháng
12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng 3/62).
Nhóm Bách Khoa ra đời tháng 1/1957 và sống đến ngày Sài Gòn sụp
đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số.
Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô
Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.
Bách Khoa quy tụ được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi
lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn
Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân,
Bình Nguyên Lộc.... Theo Võ Phiến, trong thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng
1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000 bản.
Đắt khách nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng, ra đời ngày
1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến
1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng quy tụ được nhiều nhà văn ở nhiều lứa
tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế
Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc... Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch
thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần Phong Giao cũng là một dịch giả
nổi tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những
phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.
Tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được
11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương tiếp các tờ Tân Phong,
Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.
Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn
Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964.
Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này
có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên và trí thức.
Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết:
“Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất
là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch văn chương và sắc thái địa
phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp chí trên đó họ góp mặt”.
Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần báo Đời Mới,
Nhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên
Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy...). Các nhà văn
gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ Mới, Bách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn
Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các
nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như
Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân
Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong,
Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ,
Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân
nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo
Trường...
Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ,
Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La mã
có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế
Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, song các
nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được
diễn đàn riêng trên Tin Văn hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh
mục Thanh Lãng làm chủ tịch.
Những tờ như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ các nhà văn không có
lập trường chính trị rõ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng
Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như
Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về
phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long,
Hoàng Hải Thủy, Văn Quang...
Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau
1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đình vào Nam hoặc
sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số
lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại
học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh
và các đại học tư ở Sàigòn như Vạn Hạnh, Minh Đức...”
Những nhà văn trẻ đã trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau
1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xã hội, chiến tranh mở rộng với
sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị ảnh hưởng
trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân dịch... Do đó, họ có lối nhìn thời
cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối nhìn của những đàn anh
viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng
chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của
Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân
vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.
Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều
thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy
Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam... đều sống bằng ngòi bút một cách
dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà
xuất bản riêng.
Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đã viết được
100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn Trung, ngoài
lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công trình sau
1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà
văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo... cũng đều có những số lượng
tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ nghịch với chất
lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.
Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc
Duyên Anh, lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy
Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời sống người phụ nữ tân tiến. Lớp
trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp
trẻ lãng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương
Nghiễm Mậu là những tác giả đòi hỏi người đọc một trình độ trí thức cao. Quần
chúng bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long... Học sinh trường Tây đọc văn chương
ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường Việt đọc các tác phẩm
ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.
Bộ sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới của Nguyễn Q.
Thắng xuất bản sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn gia’ của VNCH, mỗi người được
tác giả gắn cho một nhãn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Trung là ‘nhà văn nhập
cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’, Nguyễn Ngọc Lan ‘nhà văn Công
giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh (?) ‘nhà văn cần cù’, Thế Uyên ‘nhà
văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng đế’, ‘nhà độc tài' văn học’ (!?), Hồ Trường An
‘dược sĩ (?), nhà văn’…
Những nhà văn nữ như Nguyễn Thị Thụy Vũ được khoác cho cái nhãn
‘nhà văn nữ giầu tình dục’, Túy Hồng ‘nữ văn sĩ giầu tính nhục cảm’, Nguyễn Thị
Hoàng ‘nhà văn trẻ của tình lụy’, Thu Vân (?) ‘nhà văn dùng tính dục để giải
quyết vấn đề’…
Một điều không ai có thể phủ nhận là miền Nam trước khi có chiến
dịch đốt sách năm 1975 rất phong phú về sách báo, từ sáng tác đến dịch thuật,
từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc chắn là trong số các tác phẩm đó ‘có
vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc đủ sáng suốt để lọc ra những gì với họ là
tinh túy để giữ lại, hoặc dấu nếu cần.
Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954, họ rất ngạc nhiên khi thấy
những người đạp xe xích lô đến buổi trưa, tìm chỗ mát nghỉ ngơi. Họ ngồi gác
chân đọc nhật trình. Người bình dân miền Nam có truyền thống đọc sách báo mà ở
ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 miền Nam đã là vùng
đất của tiểu thuyết và báo chí trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn
chỉ dành cho người có học.
Miền Nam vào những thập niên 60-70 lại có hiện tượng giao thoa
giữa hai nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập ồ ạt của các loại sách Livre de
poche của Pháp và các loại sách soft cover của Mỹ. Giá sách nói chung tương đối
rẻ vì mục đích chính là phổ biến văn hóa, thương mại chỉ là phụ.
Người đọc có thể tìm loại sách IC (Information & Culture) dưới
hình thức sách bỏ túi (Livre de Poche) của Pháp bày bán tại các nhà sách Sài
Gòn trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có chút vốn liếng về tiếng Pháp, người ta
có thể tìm đọc những tác phẩm cổ điển của Platon, Homère hoặc các tác phẩm
đương đại của Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Saint Exupéry, Francoise Sagan…
Quân đội Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam, nhưng văn hoá Mỹ có vai trò
áp đảo hay không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, “Thời chiến tranh lạnh, với
thế lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm trong vùng ảnh hưởng Mỹ, và như vậy
là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá Mỹ, theo gót đoàn quân viễn chinh,
cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng gì sâu đậm. Ở lối sống, ở những giai tầng
thấp thì có thể gọi là có ảnh hưởng một cách xô bồ, nhưng ở thượng tầng thì
chưa”.
Hoa Kỳ thành lập cơ quan thông tin-văn hóa JUSPAO (Joint United
States Public Affairs Office) và tạp chí Thế giới Tự do được phát hành miễn phí
cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh, được in ấn bằng phương tiện tối tân
nên rất hấp dẫn người đọc.
Cũng có một nguồn cung cấp sách tiếng Anh hoàn toàn miễn phí nhưng
rất ít người biết để đem về kệ sách riêng của mình. Đó là sách của Asia Foundation
(Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu) một tổ chức phi mậu dịch, tặng không cho
người đọc là quân nhân, công chức với số lượng hạn chế mỗi lần 5 quyển cách
nhau 3 tháng.
Tôi là ‘khách hàng’ thường xuyên của Asia Foundation. Sách của
Asia Foundation là loại sách viện trợ thuộc đủ mọi lĩnh vực, trên sách có đóng
dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin đừng bán”. Nếu gặp may, bạn có thể
gặp những sách thuộc loại ‘quý, hiếm’.
Tôi còn giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces (dày khoảng 3000
trang in lại những kiệt tác văn chương của thế giới qua các thời kỳ như Iliad
của Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes, Hamlet của William Shakespeare,
Thoughts (Les Pensées) của Blaise Pascal, Faust của Von Goethe, The Death of
Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus (Thésée) của Andre Gide, Remembrance
of Things Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…
Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền văn học đã mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng ở miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau 1975, Từ điển văn học bộ mới cũng được phép in một số mục từ về Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng...
Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đã biến mất sau đại họa
1975 và chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại dưới hình
thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là những
thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc bằng sách báo với quá khứ.
Kết thúc bài viết này, tác giả xin mượn ý thơ của Vũ Đình Liên
than thở cho thân phận ông đồ trước cảnh tàn lụi của nền nho học:
Năm nay đào lại nở
Không thấy sách báo xưa
Ngọn lửa nào năm cũ
Lạc về đâu bây giờ?
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 6 – Thời điêu linh)
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/gop-nhat-buon-vui-thoi-ieu-linh-ot-sach.html
No comments:
Post a Comment