Nhà
thơ Hà Huyền Chi đặt tất cả 5 lời khác nhau cho nhạc
khúc để đời này của nhạc sĩ Trần Trịnh. Cả năm
lời khác nhau, chứ không phải 2 như chúng ta vẫn biết,
đều hay và biến đổi tùy theo cuộc tình của nhà thơ
“chung tình nhưng phản trắc” lúc đó.
(BV)
Có sự lầm lẫn nhỏ trong bài viết. Bà Quỳnh Dao mới là nhạc sĩ dương cầm {Pianist) và đã từng dậy bộ môn này chứ không phải ông chồng Dương Ngọc Hoán. Trước đây, Ông Hoán là Đại Úy Chiến Tranh Chính Trị phục vụ tại đài phát thanh Quân Đội. Khi qua Mỹ làm cho đài VOA. (Blog ViSa)
Có sự lầm lẫn nhỏ trong bài viết. Bà Quỳnh Dao mới là nhạc sĩ dương cầm {Pianist) và đã từng dậy bộ môn này chứ không phải ông chồng Dương Ngọc Hoán. Trước đây, Ông Hoán là Đại Úy Chiến Tranh Chính Trị phục vụ tại đài phát thanh Quân Đội. Khi qua Mỹ làm cho đài VOA. (Blog ViSa)
Hà
Huyền Chi tâm sự về nhạc phẩm “Lệ
Đá”, sáng tác
cùng Trần Trịnh
Nhà
thơ Hà Huyền Chi có tên thật Đặng Trí Hoàn, sinh ngày
21/12/1935 tại Hà Đông, Hà Nội. Năm 1954 một mình đi vào
Nam. Năm 1957 nhập ngũ theo đời binh nghiệp (Võ bị QG Đà
Lạt), năm 1975 qua Mỹ và hiện cư ngụ tại Washington
State, vùng Tây Bắc Hoa Kỳ.
Hà
Huyền Chi tập làm thơ hồi còn rất trẻ, tác phẩm đầu
tay của ông là “Saut” Đêm xuất hiện vào năm 1963. Đến
nay ông đã in 22 tập thơ, 8 truyện dài. (Giải thưởng
Văn Học Nghệ Thuật bộ môn Thơ, 1971). Đóng 8 phim và
đạo diễn 2 phim (Giải Tượng vàng 1972, Đạo diễn xuất
sắc nhất cho bộ môn phim tài liệu). Ông còn dùng nhiều
bút hiệu khác như : Mậu Binh, Hồ An, Mã Tử, Hạc Bút
Ông… Cũng tính đến nay, ông đã có 409 bản nhạc phổ
thơ từ 48 nhạc sĩ. Nhưng nhạc phẩm được nhiều người
ưa thích nhất là bài “Lệ Đá” do Trần Trịnh soạn
nhạc và ông đặt lời, và bài “Goá Phụ Ngây Thơ”
doTrần Thiện Thanh phổ nhạc sau này.
Tác
phẩm Hà Huyền Chi đã xuất bản gồm Saut Ðêm (1963), Còn
Gì Cho Anh, Khu Vườn Chim Sẻ, Những Nụ Gai Mòn, Rừng Ái
Ân, Vũng Tối Ðầy (1970), Bước Ðam Mê, Mưa Ðêm Trong
Chiến Hào (1971), Trên Cánh Ðồng Mây, Cho Mặt Trời
(1975), Tên Nô Lệ Mới (1979), Như Ðá Ngàn Năm (1981), Cõi
Buồn Trên Ta (1984), Ðời Bỗng Dưng Thừa (1987), Không
Gian Vương Dấu Giày (1988), Hành Trình 30 Năm Thơ Hà Huyền
Chi, Thơ Ðen (1991), Thơ Kẽm Gai, Tháng Một Buồn (1994),
Thơ Trong Da Ngựa (1995), Một Túi Bình Sinh Một Túi Thơ,
Ðồng Thiếp (1996), Bão Ðầy (1998), Bên Trời Mài Kiếm
(thơ song ngữ-Anh,Việt 1999)
Theo
nhà thơ Hà Huyền Chi cho biết,
do tình cờ khi ông còn ở binh chủng Nhẩy Dù ông đã
viết nhiều truyện ngắn và thơ. Có bài thường xuyên
đăng trên báo quân đội, nên nhẩy vào nghề báo chí rồi
nhẩy vào điện ảnh như một thử thách, vì có lúc ông
làm phụ tá trưởng phòng Điện ảnh của cục Tâm Lý
Chiến. Làm Đạo diễn trong Đạo diễn đoàn thuộc Nha
Điện Ảnh của Bộ Thông Tin.
Nhà
thơ Hà Huyền Chi vốn mê thơ, nên từ lúc ông còn đi học
đã tập làm thơ, do nghĩ rằng làm thơ là lối đi dễ
nhất để vào thế giới văn chương. Tuy nhiên theo ông
tâm sự, để đi vào đường văn chương, bước đầu
người ta nên tập viết truyện dài, sau đó tập viết
truyện ngắn. Cuối cùng mới nên tập làm thơ, bởi thơ
vốn là đỉnh cao nhất của văn chương. Còn ông đã
đi ra khỏi cái quy luật thứ tự đó.
Có
người thống kê, nhà thơ Hà Huyền Chi là thi sĩ có thơ
được phổ nhạc nhiều nhất và
người phổ thơ ông nhiều nhất là nhạc sĩ Mai Anh Việt,
với 65 bài. Vì thế có người nhận
xét “thơ Hà Huyền Chi mang nhiều chất nhạc”. Có lẽ
khi ông làm thơ đã có ý niệm đem phổ nhạc, ý niệm
này xuất phát từ khi nhạc phẩm “Lệ Đá” được ông
đặt lời sau bản nhạc chưa lời của Trần Trịnh.
Luận
về người làm văn chương – nghệ thuật
Khi
nói về những người đang làm văn chương nghệ thuật
hôm nay, theo nhà thơ Hà Huyền Chi cho biết :
-
“Trước hết, chúng ta đang có tình trạng lạm phát số
người muốn tự khoác cho mình chiếc áo thi sĩ, nhạc sĩ.
Nhiều người đã tự bỏ tiền ra in thơ hay nhạc, mà
trong lúc chưa nắm vững được kỹ thuật căn bản, nhập
môn. Của niêm luật, vần điệu, thanh điệu, hợp âm và
phối âm.
“Tình
trạng trăm hoa đua nở này không có lợi cho sự tiến hóa
chung của hai bộ môn nghệ thuật này. Nếu không muốn
nói là có hại.
“Chúng
ta hãy thử tưởng tượng, trên bất kỳ một sân khấu
nào, ai cũng có quyền nhẩy lên ca, ngâm bạt mạng, thì
sớm muộn gì cũng giết chết các sinh hoạt này”.
Rồi
nhà thơ tâm sự tiếp : là một người thích sưu tập về
thơ (collection, chưa là selection) mà ông không có cách gì
mua được cho đầy đủ những thi tập được ấn hành ở
hải ngoại. Có thể nói, mỗi tuần đều có “thi tập”
mới ra lò. Về âm nhạc cũng vậy, các CD nhạc đang ở
mức độ lạm phát, tràn ngập thị trường từ VN đem
sang ở hải ngoại ấn hành. Nếu không nói các CD “thượng
vàng hạ cám” đều xuất hiện hàng ngày. Chưa kể “trận
giặc hạ giá” của các CD sản xuất từ VN gửi sang, đã
tàn phá thị trường ca, ngâm. Có lẽ vẫn còn tình trạng
lạm phát này dài dài.
CD
hải ngoại bây giờ khó tiêu thụ, vì bây giờ gặp nạn
các ca nghệ sĩ thường làm giá quá đáng, đòi “cát-sê”
cao ngất từ 3 tới 5 ngàn đô cho một bài hát thâu âm,
đang giết chết giới sản xuất. Giống như giới tài tử
điện ảnh Mỹ đòi thù lao vài chục triệu đô cho mỗi
phim, khiến hàng loạt các rạp chiếu phim phá sản vì giá
vé cao. Cũng thế, ca sĩ hải ngoại đòi thù lao từ 3 tới
5 ngàn đô cho một bài hát thâu âm. Khiến giá bán một
CD quá cao so với giá CD sản xuất từ VN, cho nên vẫn còn
bế tắc, nan giải chưa thấy “ánh sáng cuối đường
hầm”.
Nói
về nhạc phẩm Lệ Đá trước đây, nhà thơ Hà Huyền
Chi cho biết :
Ngó
lui mấy chặng đường Lệ Đá
-
Nhạc phẩm “Lệ Đá” trước hết không phải là một
bài thơ phổ nhạc. Phải nói là tôi đã đặt lời cho
bản nhạc (vốn không tên) của nhạc sĩ Trần Trịnh. Do
một cơ duyên đặc biệt, do người bạn tên Đông chơi
Clarinet, giới thiệu Trần Trịnh đến với tôi, khi đó
Trần Trịnh (giữa thập niên 1960) chưa có nhiều tiếng
tăm trong làng tân nhạc thời bấy giờ :
-
Nhạc Trần Trịnh khá lắm, nhưng rất ít người biết
đến. Xin anh giúp thằng bạn em một lần, đặt lời ca
giùm cho nó.
Nhạc
sĩ Trần Trịnh
Tôi
liền lắc đầu : “Em biết là anh vốn mù nhạc mà !”
-
Em biết chứ, nhưng em thành thực nghĩ rằng chỉ có anh
mới giúp được nó.
Còn
Trần Trịnh cười hiền lành nói thêm :
-
Xin anh giúp cho. Tôi nghĩ là sẽ có cách…
Bấy
giờ tôi thẳng thắn đặt điều kiện :
-
Nể thằng em, coi như tôi chấp thuận trên nguyên tắc.
Tuy nhiên, tôi cần nghe anh đàn bản nhạc này vài lần để
có khái niệm về nhạc tính. Và tôi cũng cần ý kiến
thẩm định về nhạc thuật của bài này với những
Pianist như Dzương Ngọc Hoán (chồng Pianist, ca sĩ Quỳnh
Giao)
Chúng
tôi kéo nhau lên đài phát thanh Quân Đội, Trần Trịnh
ngồi vào piano. Và điều ngạc nhiên là tôi ưa ngay cái
âm hưởng buồn ngất ngây dịu nhẹ đó, rất Pianissimo
ấy. Melody thật tha thiết, ngọt ngào, bắt nhĩ. Khi ấy
Đông đã kéo Dzương Ngọc Hoán qua và Hoán khen bản nhạc
này không tiếc lời, khiến tôi có ngay quyết định giúp
Trần Trịnh. Tôi nghe Trịnh đàn thêm vài lần nữa và cố
gắng nhập tâm cái âm hương của bản nhạc.
Hôm
sau, tôi đem đến Trần Trịnh lời ca thứ nhất của Lệ
Đá. Kết quả ngoài sức tượng tượng, là không biết
bằng cảm hứng nào đó, tôi đã hòa được cái rung cảm
đích thực của thơ tôi vào nhạc Trần Trịnh. Trần
Trịnh mừng rỡ tới sững hồn. Anh và Hoán cùng hân hoan
hát Lệ Đá khiến tôi cũng choáng ngợp trong niềm vui.
Lập
tức tôi viết lời 2. Buổi trưa nắng gắt, dưới mái
tôn thấp lè tè của quán cơm lính trong trại. Trên chiếc
bàn bọc nhôm nóng bỏng, cáu bẩn, tôi thả hồn bay với
Lệ Đá. Tôi viết thật dễ dàng, và khóc cũng dễ dàng
với lời 2 này.
Tôi
cứ vừa viết vừa khóc thế đó, như khi ngồi chép lại
những dòng nàỵ Tôi bỏ dở bữa ăn, đem lời 2 lên đài
Quân Độị gặp Nhật Trường trước phòng vi âm. Tôi
đưa Lệ Đá ra khoe, Nhật Trường hát ngay với nỗi hân
hoan bốc lửa. Hắn túm ngay lấy Trần Trịnh đòi soạn
cấp kỳ hoà âm cho ban nhạc và 2 bè khác cho Mai Hương,
Như Thủy ca. Khoảng nửa giờ sau Lệ Đá được thâu cấp
kỳ. Nhật Trường, Mai Hương, Như Thủy, mỗi nguời trên
tay một bản Lệ Đá “mì ăn liền” say mê hoà ca với
nỗi xúc động đồng thiếp. “Take one Good take !” Hát
và thâu hoàn chỉnh ngay lần thứ nhất.
Nhật Trường như bay ra khỏi phòng vi âm ôm lấy tôi và Trần Trịnh :
-
Ông đặt lời thần sầu. Bản này sẽ là Top Hit.
Tôi
nhún nhường:
-
Top Hit được là nhờ nhạc Trần Trịnh bay bổng như diều
đấy chứ.
Nhật
Trường cướp lời :
-
Nhưng ông là gió lớn. Đại phong mà…
Lời
bài hát Lệ Đá (1) sáng tác cuối thập niên 60
Hỏi
đá xanh rêu…bao nhiêu tuổi đời / Hỏi gió phiêu du…qua
bao đỉnh trời / Hỏi những đêm sâu… đèn vàng héo hắt
Ái
ân… bây giờ là nước mắt / Cuối hồn một… thoáng
nhớ mong manh
Thuở
ấy tôi như… con chim lạc đàn / Xoải cánh cô đơn…bay
trong chiều vàng / Và ước mơ sao…trời đừng bão tố /
Để yêu thương… càng nhiều gắn bó / Tháng ngày là…
men say nguồn thơ
Điệp
khúc
Tình
yêu… đã vỗ… cánh rồi / Là hoa.. rót mật… cho đời
/ Chắt chiu… kỷ niệm… dĩ vãng / Em nhớ gì… không em
ơi
Mầu
áo thiên thanh… thơ ngây ngày nào / Chìm khuất trong mưa…
mưa bay rạt rào / Đọc lá thư xưa…một trời luyến
tiếc / Nhớ môi em…và mầu mắt biếc / Suối hẹn hò…
trăng xanh đầu non
Lời
bài hát Lệ Đá (2) sáng tác cuối thập niên 60
Tượng
đá kiên trinh… ru con đời đời / Là nét đan thanh… nêu
cao tình người / Là ánh chiêu dương… đẩy lùi bóng tối
/ Tháng năm xa… trùng trùng sóng gối / Ngóng nhìn từ…
bát ngát chân mây
Bài
hát ca dao… theo tôi vào đời / Và giữ cho tim… tôi xanh
nụ cười / Nào biết trong em… còn nhiều trống vắng /
Trái yêu đương… chỉ là trái đắng / Gã tật nguyền…
buông trôi niềm tin
Điệp
khúc
Tình
yêu… đã vỗ… cánh rồi / Là hoa… rót mật… cho đời
/ Chắt chiu… kỷ niệm… dĩ vãng / Em nhớ gì… không em
ơi
Tương
đá kiên trinh… ôm con đợi chồng / Nhạc lá thu mưa…
hay chân ngựa hồng / Lệ đá tuôn rơi… dòng dòng nối
tiếp / Ngóng chinh phu… đời đời kiếp kiếp / Suối
vọng tìm… trăng xanh đầu non
Cái
ma kiếp của một bài ca được yêu chuộng thường yểu
tử, và xuống cấp. Nhưng Lệ Đá thì không. Nó may mắn
thoát khỏi định số ước lệ ấý. Vào những năm 67,
68 nhạc phẩm “Lệ Đá” được cất tiếng thường
xuyên hầu như ở khắp mọi sinh hoạt văn nghệ mà thời
kỳ này nhạc Trịnh Công Sơn đang được mọi người hâm
mộ. Lệ Đá góp mặt hàng đêm ở các phòng trà, tiệm
nhảy. Lệ Đá vào khuê phòng, ra máy nước. Rồi quán cà
phê cũng Lệ Đá, phim ảnh cũng Lệ Đá với tiếng hát
Khánh Ly, phim do Thanh Nga, Đoàn Châu Mậu diễn xuất, và
Bùi Sơn Duân đạo diễn.
May
sao, Lệ Đá vẫn chưa trở thành nhạc sến, nhạc đứng
đường. May sao, tôi vẫn được yên thân, bởi vẫn giữ
kín cơ duyên “nhảy dù” vào nghề viết lời nhạc. Để
mọi người đều hiểu lầm rằng Trần Trịnh phổ thơ
tôi.
Khi
ấy tôi viết thêm lời 3 cho Lệ Đá khi đi công tác ở
Sóc Trăng, Cà Mau. Nơi Rừng Mắm của Bình Nguyên Lộc với
muỗi mòng dễ nể. Nhà văn Bình Nguyên Lộc dọa, chỉ
cần quơ tay một cái là đã túm được cả chục con
muỗí. Bạn bè hăm, trâu bò còn phải ngủ trong mùng.
Khách sạn tỉnh lẻ không khá gì hơn mấy quán trọ trong
phim Anh Hùng Xạ Điêu, Cô Gái Đồ Long. Thực khách vừa
nhâm nhi, vừa quơ chưởng, đuổi muỗí. Mới chập tối,
tôi đã chui vô chiếc mùng thố. Và buồn tình tôi viết
lời Lệ Đá 3:
Lệ
Đá lời 3 (Tháng 9, 1968)
Từ
những đam mê… xa trong cuộc đời / Từ những cơn vui…
tan theo nụ cười / Từ phút trao đi… cuộc tình thứ
nhất / Giá băng khi… tuổi hồng đã mất / Dấu bèo
chìm… khuất sóng xa khơi
Dòng
tóc mây thơ… trên vai rủ mềm / Mười ngón tay em… đan
trong tủi phiền / Lời hứa cao bay… cuộc tình cút bắt
/ Giấc mơ hoa… đầu đời đã tắt / Có gì vừa… trôi
qua tầm tay
Điệp
khúc
Người
đi… đi mãi… không về/ Thời gian… xoá vội… câu thề
/ Bóng anh… nhạt nhoà… bóng núi / Em với tình… yêu
trăng soi
Lạy
chúa ngôi… ba nghe con nguyện cầu / Và giúp cho con… quên
đi tình sầu / Lời thánh ru êm… giọt đàn thống hối /
Chúa trên cao… mỉm cười thứ lỗi / Những giọt đàn…
vang trong trời tin
Sáng
hôm sau, chỉ có Chúa ngôi ba mới biết được cơn sợ
hãi của tôi đến cỡ nào khi thức giấc. Trong mùng tôi,
cả trăm con muỗi đen đủi no căng đu mình say ngủ an
bình !!!
Lệ
Đá lời 4 (Riêng cho Khánh Liên, tháng 4, 1975)
Chiều
27/4/1975 tôi còn cái hẹn với người tình Khánh Liên ở
Thị Nghè. Tình hình thời cuộc lúc đó biến chuyển cực
nhanh, nên tôi không đến được với Khánh Liên, tôi đã
không thể thu xếp để tới chỗ hẹn, nói lời từ giã
cuối cùng với nàng. Nỗi buồn đeo cứng lấy tôi. Khi
ngồi nín thở dưới hầm, khi ráng ngoi nhìn mặt sông
Lòng Tảo lần cuối. Nhìn mặt sông cuồn cuộn đau, khi
thấp thoáng nghĩ ngàn dặm sẽ chia lìa cùng Sài Gòn, quê
hương và người tình Khánh Liên…
Nên
bài lời 4 này khởi viết từ tháng 4 và được hoàn
chỉnh vào tháng 7/1975.
Lệ
Đá lời 4
Từ
nỗi xa đau… như đêm và ngày / Mỏi cánh thư bay… bay
trong mùa đầy / Hòn đá đeo trên… cuộc đời héo hắt
/ Mãi bơi trong… vực sầu nước mắt / Chút tình buồn…
lãng đãng men say
Người
lỡ chia xa… đôi bên địa cầu / Tình lỡ chia xa… hai
bên đỉnh sầu / Người đã xa khơi… cuộc tình tách bến
/ Chút hương xưa… làm thành vốn liếng / Cũng cùn mòn…
theo chân thời gian
Điệp
khúc
Muà
xanh… đã khép… mắt đời / Hè khô… nức nở… ma
cười / Gió thu… liệm vàng… nỗi nhớ / Đông xám…
màu tang… nơi nơi
Một
nét sao bay… trên khung trời buồn / Ngọn lá me khô… lăn
trên mặt đường / Tưởng tiếng chân quen… tìm về lối
ngõ / Tiếng chân xưa… chỉ là tiếng gió / Gió thở dài…
lung lay hồn trăng
Không
rõ điều gì đã khiến tôi không xa rời được cái giao
hưởng của Lệ Đá 1, 2, khiến đôi khi, khúc này hầu
như là một phó bản, mô phỏng của khúc trước. Nó dẫn
tôi quanh quẩn trong trình tự ấy không rời.
Lệ
Đá lời 5 (Riêng cho Nguyệt Lãng)
Có
lẽ tôi là một kẻ chung tình mang trái tim phản trắc.
Năm 1992, tôi đắm hồn vào một tình yêu mới. Nguyễn Tà
Cúc – Nguyệt Lãng – Ác Bà Bà, là Ba đại ác nhân
và mỹ nhân, đã cho tôi hạnh phúc và hành tôi điêu đứng
không cùng.
Nguyễn
Tà Cúc thì không thể nào không… tà cho được. Nàng đến
với tôi như một tiểu muội thứ thiệt. Rồi tôi đổ
đốn đâm ra yêu tiểu muội, qua một phân thân của nàng
là Nguyệt Lãng (sóng trăng).
“Tháng
Một Buồn” in năm 1993, là thi tập ghi dấu tình tôi với
nàng. Rồi Nguyệt Lãng lại phân thân, lần nữa. Từ cây
bút hoa bướm hiệu đoàn, Ác Bà Bà soi kính chiếu yêu
vào đời sống, văn chương. Và chứng tỏ năng khiếu
trong lãnh vực phê bình văn học, và đàn hạch tư cách
bất chính của nhà văn. Trong và ngoài văn chương.
Tôi
xa nàng từ 1993. Dù cái tình của chúng tôi vẫn là ngàn
đời chẳng thể chia xa. Và từ tháng Mười 1992 đến
tháng Chạp 2002, đã là hơn 10 năm vèo qua trong thân tình,
chúng tôi vẫn chưa hề giáp mặt nhau, dù chỉ một lần.
Dù tôi đến Cali nhiều bận. Rất nhiều bận. Không gặp,
phải chăng là cố gắng phi thường của chúng tôí. Để
giữ cho tình mãi đẹp. Cho dù, những năm sau này, tiểu
muội của tôi đã trong tình trạng không còn ràng buộc
bởi hôn nhân.
Lệ
Đá lời 5
Từ
lúc yêu trăng… tiêu hoang cuộc đời / Từ phút say hoa…
tương tư biển trời / Muội rót cho huynh… ngọt ngào
suối biếc / Đắm say trên…từng hàng chữ viết / Cũng
muộn phiền… suốt kiếp chưa vơi
Sợi
tóc biên cương… xa hơn ngàn trùng / Nguyệt lãng sông
chia... tang thương chẳng cùng / Là nhánh phong lan… vì
người vẫy gió / Lúc trăng vơi… người còn mãi nhớ /
Vẫn nồng nàn… thơm hương tịnh yên
Điệp
khúc
Tình
đau… lấp lánh… cuối trời / Ngàn khuya… gió thở…
vai người / Tóc đêm… mượt mà… suối nhớ / Trăng
đắm… hồn si... trăng trôi
Tình
lỡ đăng quang… sông vui, dặm phiền / Còn chút dư hương…
vương trên cỏ hiền / Để mãi thương nhau… đời này
kiếp khác / Những đêm sâu… thảng lời gió hát / Khúc
tình hoài… trăm năm, ngàn năm
Nguyễn
Lê Quan
No comments:
Post a Comment