Phú
quý bất năng dâm.
Bần
tiện bất năng di.
Uy
vũ bất năng khuất.
Thị
vi trượng phu
Khí Phách Kẻ Sĩ: Thi Sĩ Vũ
Hoàng Chương
Thi
Bá Vũ Hoàng Chương khí phách cao vời với "Họa Tòng Khẩu xuất”
Thi Bá Vũ Hoàng Chương
( 1916 - 1976 )
( 1916 - 1976 )
Sự nghiệp thi văn sánh thịnh Đường
Đại bàng thọ nạn chạnh tà dương
Hai lần nhận giải... ngời cao hiển
Một cuộc bình thơ... thậm đoạn trường
Thuở trước văn tai Kim Thánh Thán
Thời nay thi hoạ Vũ Hoàng Chương
Tao nhân tự tại trong ngôn ngữ
Khảng khái... xem thường kẻ bất lương.
Nguyễn Minh Thanh cẩn tác
I -Tóm lược tiểu sử:
Vũ Hoàng Chương
Thi bá VHC người Nam Định, sinh năm 1916. Tốt nghiệp tú tài II năm
1937. Từng theo học Luật, học Toán không thành. Sau đó đi dạy học và làm thơ,
viết kịch. Năm 1944 Ông kết hôn với Đinh Thục Oanh là chi ruột của nhà thơ Đinh
Hùng.
Năm 1954, HĐ Geneve Ông di cư vào Nam tiếp tục nghề dạy học tại các trưỡng Chu Văn An, các tư thục....và làm thơ, văn...
Năm 1959 Ông đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật toàn quốc với tập thơ Hoa Đăng và đi tham dự hội nghị Thi Ca Quốc Tế taị Bỉ...
Năm 1972 Ông đoạt giải Văn Chương toàn quốc...lần nữa...
II - Món quà không nhận: Sau khi VNCH bị Hoa Kỳ bỏ rơi và thất thủ 30 - 4 - 1975, Hà Nội cử Cù Huy Cận ̣, nhà thơ và là BộTrưởng Văn Hoá Thông Tin vào Sài Gòn để dò xét tình hình đồng thời chiêu dụ giới Văn Nghệ sĩ miền Nam hợp tác. Huy Cận đã đến thăm VHC với quà cáp hậu hĩnh. Gồm có: một chai rượu quí, một lọ đầy thuốc phiện, một ảnh HCM, nhờ thi sĩ đề tặng mấy câu thơ, ( mục đích lập công, đồng thời có chiêu bài để chiêu dụ giới văn nghệ sĩ miền Nam ).
Cuộc hội ngộ thân mật sau thời gian dài xa cách, vì hai người đã từng quen biết nhau ở Hà Nội. Song, khi Huy Cận đề nghị Thi Sĩ đề thơ lên ảnh HCM , Ông im lặng không nói, không hứa chi cả. Huy Cận, khi ra về hẹn ba ngày sẽ cho người tới nhận bức hình. Vũ Hoàng Chương cũng chẳng nói chẳng rằng, chỉ mấy lời tiễn bạn mà thôi.
Sau ba ngày, Huy Cận cho người tới nhận bức hình HCM, và được báo cáo rằng hai tặng vật vẫn y nguyên, và bức ảnh HCM vẫn vậy. Huy Cận rất tức giận, chờ dịp...
III - Đêm Họp Mặt Văn Nghệ: Hoạ tòng khẩu xuất.
Khoảng đầu tháng 4 năm 1976, Việt Cộng tổ chức cái gọi là " Đêm Họp Mặt Văn Nghệ " do Thanh Nghị tên VC nằm vùng ( năm 1968 tết Mậu Thân bị động chạy trốn vô bưng theo cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ), tổ chức. Phía Hà Nội với lực lượng hùng hậu gồm: Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Đình Liên, Hoài Thanh... Phía SàiGòn có Vũ Hoàng Chương..." được mời " tham dự.
Đề tài thảo luận là 2 câu thơ của Tố Hữu trong bài " Đời đời nhớ Ông " làm để khóc tên đồ tể Staline chết năm 1953:
"Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một thương ông thương mười"
Lần lượt Thanh Nghị, Huy Cận, Vũ Đình Liên...lên phát biểu. Dĩ nhiên toàn những lời hoa mỹ ca tụng Tố Hữu tên thi nô, trùm văn nghệ lên tới mây xanh.
Để cho có tính thống nhất và cho có vẻ hài hoà Nam Bắc, Hoài Thanh nhằm vào uy tín lớn của V H C, nên đã tha thiết mời Ông góp ý. Sau nhiều lần từ chối, chẳng đặng đừng... Ông đã phát biểu...
Dưới đây là lời phát biểu của VHC:
[“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.
Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được ‘đóng khung’ tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố-Hữu đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh-Nghị thật xác đáng, tôi chịu. Nhưng thơ không phải chỉ có thế. Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ, nói cho đến nơi, là ở đây, có nghiã là thơ phải thực.
Tố-Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ Việtnam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việtnam yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca; nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việtnam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?
Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài ‘Đời đời nhớ Ông’ Tố-Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:
" Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin "
Chắc chắn là không có một bà mẹ Việtnam nào, kể cả Bà Tố-Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành... Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ.
Một tình tự không chân thực, dù đươc luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm; đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố-Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việtnam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm“. ]
Cũng theo tg Sông Lô, qua sự phân tích và lý giải của VHC, đám khán thính gỉa Hà Nội đã rất sôi nổi. Có người muốn phản bác lập luận của Ông, nhưng thấy không có chỗ hở, họ bèn đề nghị VHC nói về " Thi ca " mong có kẽ hở để phê phán bắt bẻ. Ông đã diễn đạt như sau:
[“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những tình tự thực. Không chấp nhận loại thơ tình tự hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy."]
[“Tôi xin nhắc ; sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca; vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lý cuộc sống.”] ( hết trích )
Mấy ngày sau cái gọi là " Đêm Họp Mặt Văn Nghệ ", thi sĩ VHC bị bắt và bị đưa vào tù khám lớn Chí Hoà...!!!
Như vậy là đại hoạ đã đến với Ông. Tuy Ông biết trước nhưng không tránh, không thèm tránh do tâm Liêm sỉ và tính Khí phách cao vời của Ông. Ta thấỳ, trong bài thơ "Vịnh Tranh Gà Lợn " có câu:
" Rằng vách có tai, thơ có hoạ ".
" Thơ có hoạ ", rõ ràng, chính Ông đã biết trước trong tình thế đương thời rất dễ bị tai hoạ vì thơ, nhưng không lo và không cần tránh.
Bởi vì, khi Huy Cận đến viếng, nếu Ông muốn đổi màu như con tắc kè, phản suy phù thịnh thiệt là dễ vô cùng. Liêm sỉ của Thi Bá ở chỗ này.
Riêng về khí phách của Ông đã biểu hiện qua phần phê bình 4 câu thơ của thi nô Tố Hữu và phần thuyết giảng về " Thi ca " đã đề cập ở trên. Và " hoạ tòng khẩu xuất " chính tại nơi đăy...!!
Ngoài ra, Liêm sỉ, Khí phách của Ông cũng đã thể hiện từ trước qua câu thơ:
" Lòng lợn âm dương một tấc thành " trong bài " Vịnh Tranh Gà Lợn ".
Tóm lại, qua bài " Vịnh Tranh Gà Lợn ", tác giả đã biết trước. Biết trước: " thơ có hoạ " song Ông vẫn " một tấc thành ". Đó là tư cách của kẻ sĩ.
Ông đã tiêu biểu sáng ngời cho hạng người hiếm thấy:
- Phú quí bất năng dâm
- Uy vũ bất năng khuất
Ông bị bắt ngày 13 - 4 - 1976. Và mất ngày 6 - 9 - 1976 sau khi VC cho về nhà 5 ngày !
IV -Thơ của VHC và Thơ hoạ:
Vịnh Tranh Gà Lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành,
Gà lợn om sòm rối bức tranh.
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh.
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành.
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.
Vũ Hoàng Chương
Xót xa số phần hẩm hiu của một kẻ sĩ tài danh, hậu sinh phụng hoạ bài " VTGL " để ca ngợi liêm sỉ, khí phách của Ông, đồng thời cũng nghiêm mình kính cẩn chào và chúc Ông an lạc nơi cõi vĩnh hằng:
Thi Bá Vũ Hoàng Chương ( 2 )
( Phụng hoạ bài Vịnh Tranh Gà Lợn )
Quốc bại vong nhân phận phải đành
Thế mà phong thái đẹp như tranh
Ung dung trước lũ quàng khăn đỏ
Bình thảng quanh bầy phản áo xanh
Dẫu biết hoạ tòng trong khẩu xuất
Vẫn đem lý giải với tâm thành
Chỉ vì cóc nhảy ngồi bàn độc
Cưỡi hạc... non Bồng ngắm nguyệt thanh
Nguyễn Minh Thanh cẩn hoạ
V - Lời kết : Qua câu chuyện của Thi Bá Vũ Hoàng Chương và Cù Huy Cận, chúng ta thấy có điểm hơi giống chuyện của Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường đời vua Gia Long.
Trong sự xót xa bậc tài danh tao nhân VHC, một Kẻ Sĩ tiêu biểu trong Văn Học Miền Nam. Hậu sinh kết thúc tiểu truyện bi hùng qua lời đáp khí khái của tiên sinh Ngô Thì Nhậm trước tên ĐTT tiểu tâm:
" Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu
Gặp thời thế, thế thời phải thế ".
Nguyễn Minh Thanh biên soạn
No comments:
Post a Comment