Bốn mươi năm
Dương Nghiễm Mậu và tự truyện Nguyễn Du (Ngô Thế Vinh)
Ngô Thế Vinh
2015-02-20
2015-02-20
Dương Nghiễm
Mậu gẫy chân, ngồi cười trước tủ sách, hai tay tựa trên walker, chụp tháng
9/2006
“...
Kẻ có chữ bất mãn thường chọn cách viết sớ tâu lên... Những lá sớ lâm ly thảm
thiết này thường không được nghe. Có kẻ dâng sớ nhiều lần nhưng không thấy cởi
bỏ áo mũ trở lại làm phó thường dân mà vẫn ung ung tại vị hưởng bổng lộc của
triều đình. Một đôi kẻ chấp bút có đôi chút tự trọng thì chọn con đường ở ẩn,
không chọn con đường làm giặc nên không có tên trong Sưu Tặc Ký.” Từ Hải Ngoại
Truyện, Dương Nghiễm Mậu, 2005.
1975_
Bùi Giáng và Dương Nghiễm Mậu
Sau
30 tháng 4, 1975 các văn nghệ sĩ không đi thoát, hoặc chọn ở lại như Dương
Nghiễm Mậu, nếu không phải đám nằm vùng thì ai cũng chờ cái ngày đi vào nhà
giam, các trại tù cải tạo. Giữa những ngày căng thẳng và ảm đạm ấy, có
một người vẫn nhởn nhơ, đi tìm thăm bạn bè văn nghệ cũ. Không ai khác hơn đó là
nhà thơ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn. Trung niên thi sĩ lúc nào cũng gầy và già hơn
tuổi, râu tóc sơ sác như từ bao giờ. Giữa một Sài Gòn thảng thốt, không biết
anh đã lượm ở đâu trên đường mà có được bộ quân phục nguỵ với quân hàm Đại tá,
Bùi Giáng đem vận ngay vào người, chân thấp chân cao đi nghêu ngao như diễn
binh trên hè phố. Có lẽ đây là hình ảnh tuyệt đẹp cuối cùng của cuộc chiến
tranh Việt Nam, với một tân binh tình nguyện gia nhập đạo quân đã hoàn toàn rã
ngũ. Rồi Bùi Giáng cũng tới được khu nhà thờ Ba Chuông, nơi có căn nhà Dương
Nghiễm Mậu. Bùi Giáng hồn nhiên đi sâu vào con hẻm chật chội ấy đã thấp thoáng
màu cờ đỏ. Anh vẫn tỉnh táo nhớ đúng nhà, tới đập cửa rầm rầm đòi vào thăm cho
được cố tri. Trầm tĩnh và bản lãnh như Nghiễm, mà trước tình huống ấy cũng vẫn
như gái ngồi phải cọc; được cái lúc ấy chòm xóm còn là thân quen, mạng lưới
công an chưa đủ dầy đặc để gây nỗi phiền hà. Ra khỏi nhà Dương Nghiễm Mậu,
không biết Bùi Giáng còn đi gõ cửa tới thăm những ai khác, hay anh lại ra nơi
đầu cầu Trương Minh Giảng như một người tỉnh táo đứng làm cảnh sát công lộ chỉ
đường “trên dòng luân lưu hỗn mang của lịch sử” và để rồi sau đó nếu anh không
bị đám “cách mạng 30” hay bọn công an đánh tả tơi sưng mặt mũi thì rồi cuối
cùng chắc anh cũng lại tìm về với “mẫu hậu” Kim Cương, ngồi trước cửa phóng bút
làm thơ tặng nàng.
1975_
Toà Soạn Bách Khoa và anh Lê Ngộ Châu
Tuần
lễ trước 30 tháng 4, 1975, nhân viên Đài Mẹ Việt Nam và những cây viết cộng tác
đã được Mỹ lên kế hoạch di tản khỏi Việt Nam – để tránh bị trả thù. Trước ngày
lên tàu ra đảo Phú Quốc, nhà văn Võ Phiến tới thăm toà soạn Bách Khoa, nơi vùng
“xôi đậu” có Võ Phiến Bắt Trẻ Đồng Xanh ngồi chung với Vũ Hạnh Bút Máu; cũng là
nơi mà Võ Phiến đã gắn bó suốt 18 năm cùng với tuổi thọ của tờ báo. Anh Lê Ngộ
Châu chủ nhiệm Bách Khoa kể lại: Võ Phiến thì phải đi, nhưng linh cảm
không có ngày về, vẻ mặt buồn thảm, anh chỉ ngồi khóc lặng lẽ không nói nổi lời
giã từ và rồi đứng dậy bước ra khỏi toà soạn.
Trước
một ngày mất Sài Gòn, thì hầu như toàn bộ nhân viên Đài Mẹ Việt Nam trong đó có
gia đình Võ Phiến Giã Từ, Lê Tất Điều Phá Núi, Viên Linh Hoá Thân, Tuý Hồng Tôi
Nhìn Tôi Trên Vách, Thanh Nam Bóng Nhỏ Đường Dài từ Phú Quốc đã được đưa lên
con tàu lớn Challenger đậu sẵn ngoài khơi. Khi bờ biển Phú Quốc xa mờ trong tầm
mắt, lần này thì Lê Tất Điều thấy Võ Phiến khóc. Cùng với những con tàu thuộc
Đệ Thất Hạm đội, họ lênh đênh trên Biển Đông trong cuộc hải trình nhiều ngày để
tới đảo Guam. Guam đã từng là căn cứ xuất phát của các đoàn phi cơ B52 trong
cuộc chiến tranh Việt Nam với những trận mưa bom trải thảm/ carpet bombing có
sức tàn phá của một cơn địa chấn. Đảo Guam chỉ rộng 550 km2 sau tháng Tư 1975,
là chặng dừng chân đầu tiên của hàng trăm ngàn người Việt tỵ nạn trước khi vào
đất Mỹ. Vũ Khắc Khoan Thần Tháp Rùa, Nghiêm Xuân Hồng Người Viễn Khách Thứ 10,
Mặc Đỗ Siu Cô Nương nhóm Quan Điểm cũng đi thoát và trước sau đặt chân tới các
trại tỵ nạn trên đất Mỹ.
Chưa
đến một tuần lễ sau, ngày 5 tháng 5, 1975 một trong những cây viết lâu năm của
Bách Khoa, Phạm Việt Châu Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh đã tuẫn tiết tại tư gia
khi cộng sản hoàn toàn chiếm Miền Nam. Cái chết rất sớm và tức tưởi của một tác
giả có viễn kiến về lịch sử dân tộc, sức sáng tạo đang sung mãn mới bước vào
tuổi 43, đã như một hồi chuông báo tử cho bao nhiêu tang thương diễn ra sau đó.
1975_
Chiến Dịch Đốt Sách
Những
ngày sau 30 tháng 4, 1975, hai đứa con Vũ Hạnh trong bộ bà ba đen, tay cuốn
băng đỏ, tới toà báo Bách Khoa cũng là nơi cư ngụ của anh chị Lê Ngộ Châu.
Trước khách lạ, đứa con gái nói giọng hãnh tiến: “Tụi con mới từ Hóc Môn về, cả
đêm qua đi kích tới sáng.” Người dân lành nào vô phước đi lạc trên đường ruộng
đêm đó có thể bị tụi nó coi là nguỵ. Những tên nằm vùng cùng với đám “cách mạng
30” này chỉ như phó bản đám Hồng vệ binh của Mao nhưng lại sau cả thập niên.
Cũng chính những đám này là thành phần kích động chủ lực trong chiến dịch lùng
và diệt tàn dư văn hoá Mỹ Nguỵ, chúng dẫm đạp những cuốn sách, nổi lửa đốt từng
chồng sách rồi tới cả tới những kho sách. Những cuốn sách mà đa phần chúng chưa
hề đọc, trong đó có cả một tủ sách “Học Làm Người”. Sách của những “tên biệt
kích văn nghệ” còn được trưng bày trong toà nhà triển lãm Tội ác Mỹ Nguỵ cùng
với vũ khí chiến tranh và chuồng cọp, dĩ nhiên có sách của Dương Nghiễm Mậu, có
cả cuốn Vòng Đai Xanh của người viết.
Cảm
khái với câu thơ Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí: văn chương vô mệnh cũng tro
than/ văn chương vô mệnh luỵ phần dư. Hơn hai ngàn năm sau, chẳng ai quên
chuyện “đốt sách chôn nho/ phần thư, khanh nho” của Tần Thuỷ Hoàng, nhưng không
biết chỉ 100 năm tới đây, các thế hệ tương lai có ai còn giữ được“bộ nhớ” Đã Có
Một Thời Như Thế – tên một bài viết của Nhật Tiến, về giai đoạn người Cộng sản
Việt Nam đốt sách giam tù cả một thế hệ văn nghệ sĩ của Miền Nam?
1975_
Nhà hàng Givral và Phạm Xuân Ẩn
Trước
1975, La Pagode, Brodard, Givral là nơi tôi, Phạm Đình Vy [chủ nhiệm Tình
Thương] và các bạn y khoa thỉnh thoảng có dịp lui tới kể cả khi đã ra trường.
Givral cũng là nơi thường gặp gỡ các nhà báo như Phạm Xuân Ẩn, Cao Giao, Nguyễn
Tú, Như Phong Lê Văn Tiến... Phạm Xuân Ẩn, là bạn đồng môn với nhà văn Sơn Nam
thời trung học Cần Thơ, Ẩn gốc người Nam dáng chân quê mộc mạc. Trong suốt cuộc
chiến tranh Việt Nam, Phạm Xuân Ẩn chỉ được biết tới như phóng viên của
Reuters, sau đó chuyển sang tuần báo Times, trụ sở trong Continental Palace bên
kia đường. Cũng không thể không nhắc tới khách sạn Caravelle, gần toà nhà Quốc
hội cũ, nơi tập trung đông đảo nhà báo ngoại quốc, nơi đặt văn phòng của các
hãng thông tấn và truyền hình Mỹ như ABC, NBC, CBS... Cũng chính Morley Safer
trong một buổi phát hình CBS Evening News ngày 5 tháng 8, 1965 chiếu cảnh lính
Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trong cuộc hành quân xua dân ra khỏi làng và sau đó bật
quẹt Zippo đốt nhà của họ, những hình ấy đã làm rúng động Toà Nhà Trắng và cả
nước Mỹ như một vết hằn sâu của một cuộc chiến bắt đầu thất nhân tâm. Bảy năm
sau, Nick Ut phóng viên AP với bức hình “Napalm Girl” chụp trong trận giao
tranh Trảng Bàng Tây Ninh ngày 8 tháng 6, 1972, cũng là thời điểm Quốc Hội Mỹ
dứt khoát cắt viện trợ quân sự cho Miền Nam.
Đội
quân báo chí hùng hậu ấy, trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, có khả năng
điều kiện hoá dư luận với “những tin tức xấu từ một phía”, đủ làm nản lòng dân
Mỹ, cùng với đám GI’s đang cầm súng từ phía bên kia nửa vòng trái đất; truyền
thông Mỹ có phần công lao không nhỏ gián tiếp đưa tới mất Miền Nam Tự Do và
cũng là một thất trận đầu tiên trong lịch sử các cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ.
Và rồi, tất cả bọn họ cũng đã kịp tháo chạy trước khi Sài Gòn đổi chủ.
Và
rồi mấy ngày đầu tháng 5, 1975, Givral lại như điểm hẹn của những người bạn còn
kẹt lại, tới đó để biết ai ở ai đi và nghe ngóng tin tức. Từ những chiếc bàn
nhìn qua khung kính trong suốt ấy, tình cờ gặp lại Phạm Xuân Ẩn. Ẩn cũng đã
từng tới thăm toà soạn báo sinh viên Y khoa Tình Thương trên đường Nguyễn Bỉnh
Khiêm ngày nào. Vợ con Phạm Xuân Ẩn đã được tuần báo Times cho di tản trước đó
nhiều hôm, nhưng Ẩn thì ở lại. Với hơi chút ngạc nhiên và vẻ quan tâm, Ẩn hỏi
tôi: “Vinh, tại sao toa không đi?” Lúc đó chỉ như một câu hỏi xã giao, nhưng
phải sau này, khi đã ở trong vòng rào các trại tù cải tạo, tôi mới thấm thía vỡ
lẽ được câu hỏi ấy của Phạm Xuân Ẩn, nó đã như lời báo bão về những năm tháng
tù đầy từ một chính sách mà Ẩn thì biết rất rõ. Trong vỏ bọc của một nhà báo
làm cho tuần báo Times danh tiếng của Mỹ, thực chất trước đó nhiều năm Phạm
Xuân Ẩn là một điệp viên chiến lược đơn tuyến của Cộng sản Hà Nội. Sau này cũng
chính Phạm Xuân Ẩn tâm sự với Morley Safer chương trình 60 Minutes của CBS rằng
khi Sài Gòn xụp đổ không dễ gì để nói với đám “cách mạng 30” đeo súng AK lúc đó
rằng, tôi là đại tá quân đội của họ, không phải CIA. Có thể tôi bị tụi nó giết
và cả con chó của tôi cũng bị nướng sống. [Flashback, Vietnam Revisited 1989,
The Spy in Winter]
1975_
Nhà báo Như Phong
Chỉ
sau cụ Hoàng Văn Chí Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, người hiểu rõ cộng sản sau
này không ai hơn nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến. Cô Thần cũng là bút hiệu khác
của Như Phong Khói Sóng trên nhật báo Tự Do, một chuyên mục viết về cộng sản
Miền Bắc. Hiểu cộng sản như vậy, với biết trước những tháng năm tù đầy, vậy mà
anh vẫn chọn ở lại. Gặp lại anh tại nhà luật sư Mai Văn Lễ, trước bệnh viện
Sùng Chính trên đường Trần Hưng Đạo. Anh Mai Văn Lễ có một thời làm Khoa trưởng
Luật khoa Huế thời Phật giáo Tranh đấu, bây giờ chỉ còn lại mình anh, chị và
hai con thì đã đi trước đó một tuần lễ.
Trưa
ngày 30 tháng Tư, ngay sau khi lệnh đầu hàng được phát đi, có thể thấy từ mấy
tầng lầu cao là một cơn mưa confetti, chỉ một màu trắng của những mảnh vụn giấy
tờ tuỳ thân của quân cán chính cần được xé huỷ trước khi cộng quân hoàn toàn
kiểm soát Sài Gòn. Không kể những giày nón quân phục được cởi bỏ vội vàng vứt
tả tơi trên đường phố. Là người đi trước thời cuộc, anh Như Phong tiên đoán
đúng những gì sắp diễn ra: chiến dịch đánh tư sản, kế hoạch đổi tiền cho mỗi hộ
khẩu và rồi những cuộn giấy bạc sau đó trở thành rẻ rách và rồi sẽ là quần đảo
ngục tù / Gulag Archipelago một tên sách của Solzhenitsyn. Dư tiền cũ thiên hạ
đổ xô đi mua vàng, đôla chợ đen không dễ gì có trong thời điểm này. Anh Như
Phong thì chỉ gợi ý mua những cuộn len quý nhồi trong các bộ nệm sa lông giống
như ngoài Bắc, sau này khi cần có thể gỡ dần ra bán để kiếm sống. Nói vậy thôi
chứ thái độ của cả mấy anh em vẫn là “chờ xem”.
Và
rồi vang lên tiếng xích sắt nghiến trên mặt nhựa, nhìn qua khung cửa là những
chiếc tăng T54 treo cờ giải phóng hối hả chạy về phía trung tâm Sài Gòn.
...
1980_
Cũng đừng tới thăm
Ra
tù ba năm sau, trở về một Sài Gòn đã đổi khác. Nếu còn chút gì thân quen thì là
mấy người bạn, không nhiều còn ở lại. Anh ấy là một trong những cố tri đầu tiên
tôi nghĩ tới thăm. Là giáo sư đại học, anh tốt nghiệp ở Mỹ, trở về Việt Nam từ
cuối thập niên 1960, đầy lý tưởng, ôm mộng lớn về một cuộc cách mạng xã hội –
theo anh công bằng xã hội/ social justice phải là giải pháp rốt ráo cho một
cuộc chiến tranh bế tắc đang diễn ra khốc liệt giữa hai miền Bắc Nam. Tôi cũng
đã từng gặp anh ở Mỹ và cả những năm sau này ở Việt Nam. Sự xụp đổ mau chóng
của Miền Nam với anh là cả một “giấc mộng lỡ”. Tuy không phải chịu những năm
tháng tù đầy, nhưng cuộc sống gia đình anh, cũng như cả Miền Nam rõ ràng là khó
khăn. Từng bước, anh đã bán những bộ tự điển quý lúc đó rất có giá, cho đám học
giả đói sách từ Bắc vào mua; tiếp đến là đồ đạc tranh tượng, cuối cùng là
còn lại là một tủ sách khoa-học-xã-hội đồ sộ mà anh đem từ Mỹ về thì nay trở
thành vô giá – no value, chỉ có thể đem cân ký bán lạt-son để làm bột giấy. Vợ
anh là cô giáo cũng phải ra giữa chốn chợ trời tần tảo kiếm sống. Anh thì quá
nhậy cảm để thấy nỗi đau và nhục.
Gặp
lại anh, vẫn nét mặt trí thức và đôn hậu như ngày nào, nhưng trong ánh mắt thì
lộ rõ vẻ bất an. Thoáng nét vui mừng nhưng anh kịp kìm hãm, vừa nói vừa canh
chừng nhìn ra cửa : “Biết toa được ra trại thì mừng nhưng cũng xin toa đừng tới
thăm”. Sự thẳng thắn rất trực tiếp của anh, thoáng như một gáo nước lạnh, nhưng
tôi cảm thông và vẫn rất thương anh. Gia đình bên vợ anh ở Mỹ đang làm thủ tục
bảo lãnh, nghĩ rằng việc có liên hệ với lính nguỵ với tù cải tạo có thể là cản
trở cho cuộc hành trình hy vọng của gia đình anh tới bến bờ tự do ấy. Anh phản
ứng theo hoàn cảnh, không chút phán đoán tôi vẫn dành cho anh sự kính trọng, và
mai mốt đây nếu có ngày gặp lại anh thì chắc chắn phải là trên một lục địa
khác. Rất sớm trên toàn Miền Nam đã bắt đầu có một mạng lưới tai mắt tổ dân phố
và công an đủ để gây hoài nghi và cả sự sợ hãi.
Ra
khỏi nhà anh, có lại được niềm vui ấm lòng khi gặp người bạn tấm cám Nghiêu Đề.
Nghiêu Đề cho biết mới gặp Sao Trên Rừng đi xe gắn máy từ Đà Lạt xuống, ngạc
nhiên thấy Nguyễn Đức Sơn lần đầu tiên ăn vận đồ lớn complet cravate, hỏi tại
sao thì Sơn cười giọng khinh mạn: “có vậy mới khỏi lẫn với tụi nó”.
1980_
Trần Phong Giao ngoài chợ
Trần
Phong Giao dáng vạm vỡ, da sậm có vẻ công nhân lao động ngoài nắng hơn là người
làm việc chữ nghĩa văn phòng. Nổi tiếng là thư ký toà soạn báo Văn trong 8 năm
từ 1963 tới 1971, một tờ báo có vị trí đặc biệt trong sinh hoạt văn học Miền
Nam với phát hiện những cây bút mới và không ít sau này đã trở thành những tên
tuổi. Sau Văn, anh thử làm nhiều công việc khác cũng trong lãnh vực báo chí,
xuất bản, rồi thủ thư nhưng đã không để lại nhiều dấu ấn như ở Văn. Không
lâu sau 30 tháng 4, cả hai anh chị đã phải chạy chợ kiếm sống với chiếc xe ba
bánh, đậu trên đường Lê Thánh Tôn đứng bán từng bó củi, mấy nải chuối hay những
bó rau tươi để nuôi đàn con. Ngày ra tù, tới thăm anh, vẫn ở trong con hẻm gần
Cầu Kiệu, bên Tân Định, anh gầy sút đi nhiều hai chân đã rất yếu. Gia tài của
anh đáng giá vỏn vẹn còn một tủ sách, quý nhất là trọn bộ báo Văn đóng bìa da,
một sự nghiệp của Trần Phong Giao nhưng rồi anh cũng đã không giữ được và phải
đem bán cho một Việt kiều từ Mỹ về để có tiền chạy gạo và thuốc men. Trần Phong
Giao mất trong sự túng quẫn và bạo bệnh (2005), anh cũng bước qua được ngưỡng
tuổi cổ lai hy.
1981_
Và những bữa cơm gia đình
Ngôi
nhà Nghiễm trong con hẻm với mặt tiền hẹp nhưng khá sâu. Nghiễm mặc quần soóc,
áo thun trắng, đôi mắt rất tinh anh lúc nào cũng như mỉm cười, trông trẻ hơn
tuổi của một người sinh năm 1936.
Tuy
sống gần khu Chợ Cũ, sẵn những quán ăn vỉa hè và nhà hàng, rất tiện cho nếp
sống cơm hàng cháo chợ, nhưng thường sau một ngày làm việc, thay vì về nhà tôi
ghé nhà Nghiễm, được chị Trang vợ Nghiễm cho thêm chén thêm đũa với những bữa
ăn đạm bạc nhưng ngon miệng vì là bữa cơm hạnh phúc gia đình. Trong tù, tôi và
Nghiễm thì đã quen với những bữa ăn đói ngày đêm, ra ngoài tuy rau đậu nhưng
cũng là bữa tạm no. Người lớn thì không sao, nhưng với trẻ nhỏ đang tuổi “mau
ăn, chóng lớn” thì khẩu phần ấy phải xem là suy dinh dưỡng. Nếu không là ngày
phải ra trễ, tôi ghé qua chợ mua một món ăn gì đó, đem tới bày thêm vào mâm cơm
gia đình. Có thêm món thịt, thêm chút chất đạm thì hôm đó với hai đứa nhỏ như
là bữa tiệc. Những lần gặp nhau, tôi và Nghiễm đều ít nói. Hình như Nghiễm có
viết ở đâu đó là những điều không cần nói ra nhưng cũng đã hiểu nhau rồi. Chỉ
có cô giáo Trang vợ Nghiễm sau một ngày dạy học mệt nhọc nhưng lúc nào cũng có
đôi chuyện vui từ trường đem về gia đình. Miền Nam tài nguyên thì vẫn nguyên
vẹn, nhưng đã có chính sách bần cùng hoá kiểm soát từng bao tử của người dân
qua khẩu phần và sổ lương thực của họ.
1982_
Dương Nghiễm Mậu và một Thanh Tâm Tuyền khác
Đã
gặp Thanh Tâm Tuyền ở những ngày 30 tháng Tư 1975 nơi một căn nhà nhỏ bên Gia
Định. Vợ Tâm lúc đó cũng vừa sinh đứa con trai út trong cảnh tán loạn bệnh viện
Nguyễn Văn Học. “Một Chủ Nhật Khác” cuốn tiểu thuyết cuối cùng của “một thời để
yêu một thời để chết” cũng vừa mới in xong, chưa kịp phát hành. Ra tù 1982, gặp
lại Thanh Tâm Tuyền của Bếp Lửa, bằng tuổi Dương Nghiễm Mậu nhưng trông anh già
hơn nhiều, da sậm đen sắc diện của một người bị bệnh sốt rét kinh niên. Khó có
thể tưởng tượng với vóc dáng mảnh mai ấy anh sống sót qua suốt bảy năm tù đầy
ngày nào cũng đói lạnh nơi những vùng sơn lam chướng khí ấy ở các trại giam
Miền Bắc. Bảy năm đốn tre trảy gỗ trên ngàn, bị tre nứa đâm xuyên đùi không
giải phẫu thuốc men nhưng anh vẫn sống sót, trong tù chống rét anh tập hút
thuốc lào, không giấy bút anh vẫn làm thơ qua trí nhớ nhưng là những bài thơ
trở về với các thể thơ truyền thống. Thơ ở Đâu Xa là tập thơ cuối cùng làm
trong tù TTT cho xuất bản ở bên Mỹ (1990).
Trong
một cuộc phỏng vấn rất hiếm năm 1993, Thanh Tâm Tuyền đã giải thích sự chuyển
biến trong thi ca của anh:“Làm thơ trong trại cải tạo, cũng là trở về với thi
ca truyền thống dân gian/ Faire de la poésie dans un camp de
redressement, c’est aussi retourner à la poésie de tradition populaire.” [Thanh
Tam Tuyen, la poésie entre la guerre et le camp; par Le Huu Khoa, Publications
de l’Université de Provence]
Trong
chỗ rất riêng tư, anh tâm sự: Thái Thanh bạn anh đã dứt khoát không hát từ sau
1975. Khi biết Thanh Tâm Tuyền vừa ra tù đến thăm, cô ấy cầm đàn và hát lại
những bài thơ phổ nhạc của anh: Đêm màu hồng, Nửa hồn thương đau, Lệ đá xanh…
tuy ấm lòng gặp lại cố tri nhưng rồi anh đã không còn nguyên vẹn cảm xúc để
nghe lại những thanh âm ngày cũ. Anh đã nói không với những người mới muốn gặp
anh. Anh vẫn giữ thái độ đó khi sang định cư ở Mỹ. Sự khép kín ấy khiến Mai
Thảo đôi khi cũng phản ứng giận lẫy.
Rồi
cũng có một buổi gặp gỡ cuối 1982, từ nhà Nghiễm có Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm
Tuyền và tôi cùng đi bộ tới một quán cóc cũng trên đường Trương Minh Giảng nơi
gần đường xe lửa. Thức uống của Nghiễm bao giờ cũng là một chai bia. Nhắc tới
Tô Thuỳ Yên Trường Sa Hành thì vẫn còn ở trong tù. Rồi chẳng ai nhắc tới nỗi
khổ hiện tại mà câu chuyện lại xoay quanh những người bạn may may mắn ở phương
xa. Những người đi thoát trước 1975, vài tên tuổi được nhắc tới: Thanh Nam Tuý
Hồng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Viên Linh... Nhưng rồi tên
Mai Thảo Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời vẫn như điểm hội tụ của những tin
tức. Anh là nhà văn duy nhất hiếm hoi thoát các vụ ruồng bắt của cộng sản trong
suốt hai năm sống lẩn lút ở Sài Gòn. Vẫn có nhiều người liều mạng che chở cho
anh. Trần Dạ Từ Tỏ Tình Trong Đêm cùng với rất nhiều nhà văn nhà báo thì đang
trong tù, Nhã Ca Giải Khăn Sô Cho Huế ra tù sớm phải cưu mang một đàn con nhỏ
nhưng cũng chính mấy mẹ con Nhã Ca đã bất chấp hệ luỵ cất dấu bác Mai Thảo
trong nhà, một căn phố lầu trên góc đường Tự Do, đây cũng là chặng ẩn náu cuối
cùng của Mai Thảo cho đến khi anh vượt biển rất sớm thoát được tới đảo Pulau
Besar Mã Lai đầu tháng 12, 1977.
Hai
năm sau Mai Thảo 1979, phải kể tới chuyến đi thừa sống thiếu chết của 81 thuyền
nhân trong số đó có Nhật Tiến Người Kéo Màn và thầy Từ Mẫn Lá Bối, vợ chồng ký
giả Dương Phục Vũ Thanh Thuỷ... và con tàu đã gặp nạn hải tặc Thái Lan trên
biển rồi trên đảo Kra, và cũng rất sớm qua ngòi bút của người chứng Nhật Tiến
đã ghi lại những thảm cảnh ấy và bắt đầu làm rúng động lương tâm thế giới. Cũng
khởi đầu cho phong trào Cứu Người Vượt Biển về sau này.
Sau
lần gặp gỡ nơi nhà Nghiễm, Thanh Tâm Tuyền chuẩn bị đi Mỹ theo diện HO, cho dù
“tâm thái” – chữ của TTT, vẫn gắn bó với một quê hương mà anh không muốn xa
rời, riêng tác giả Ba Sinh Hương Lửa lại vào tù tổng cộng 14 năm trước khi đi
định cư 1995 và gặp lại Mai Thảo ở Quận Cam.
Trên
đường đi, tôi không thể không có ý nghĩ nếu làm một con toán cộng những năm tù
đầy của mỗi văn nghệ sĩ Miền Nam, con số ấy phải vượt trên nhiều thế kỷ. Không
phải chỉ có oan nghiệt giam cầm huỷ hoại những thân xác, họ còn giết chết sức
sáng tạo của văn nghệ sĩ trong khoảng thời gian sung mãn nhất. Một nỗ lực huỷ
diệt cả một nền văn hóa đến tận gốc: trước lịch sử, ai phải nhận lãnh trách
nhiệm cho những tội ác thiên thu ấy?...
Tiểu
sử:
Dương
Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh năm 1936 tại Hà Đông, cùng năm sinh
với Thanh Tâm Tuyền, Thảo Trường. Học tiểu học trường Hàng Than, trung học Chu
Văn An Hà Nội. Cùng học 2 trường ấy nhưng Nghiễm hơn tôi 5 tuổi, có lẽ trên
nhiều lớp nên không được biết anh. 1954 di cư vào Nam. Từ 1957 viết nhiều tùy
bút, đoản văn, truyện ngắn, truyện dài cho Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Văn, Văn Học,
Bách Khoa, Giao Điểm, Chính Văn. Có một giai đoạn ngắn, Nghiễm sinh hoạt nơi
Đàm Trường Viễn Kiến của Nguyễn Đức Quỳnh Ai Có Qua Cầu. Từ 1962, làm tạp chí
Văn Nghệ với Lý Hoàng Phong, anh của nhà thơ Quách Thoại. Tập truyện ngắn đầu
tay Cũng Đành, Văn Nghệ xuất bản năm 1963. Truyện dài Gia tài Người Mẹ, giải thưởng
Văn Chương Toàn Quốc 1966. Nhập ngũ 1966 với cấp bậc hạ sĩ đồng hoá, làm phóng
viên chiến trường đến tháng 4/1975. Sau 1975 bị bắt, ra tù 1977, sống bằng nghề
sơn mài tại Sài Gòn.
2006_
Những Cơn Mưa Sài Gòn
Từ
một khách sạn nhỏ gần đường Tự Do, để tới khu nhà thờ Ba Chuông, đi bộ thì quá
xa, taxi thì nạn kẹt xe, tôi chọn Honda ôm, nhưng đã không tránh khỏi thót tim
vì mấy tay lái xe quá liều mạng: chạy nhanh len lách, ngược dòng xe cộ, cắt cả
lên vỉa hè đông người đi bộ mà anh ta cho là an toàn hơn đi theo luật giao
thông. Tuy không có mẩu giấy địa chỉ trên tay, nhưng có trí nhớ tốt về hình ảnh
/ photographic memory, tôi nghĩ vẫn có thể tìm ra nhà Dương Nghiễm Mậu vẫn
trong ngõ hẻm ấy cho dù đã nhiều năm không gặp. Nhà đã được xây lại, cất thêm
một từng lầu. Nghiễm nay là nghệ nhân sơn mài, chị Trang vợ Nghiễm thì vẫn dạy
Anh văn ở Marie Curie, hai con Nghiễm đã trưởng thành tốt nghiệp đại học và đi
làm. Cả gia đình đều làm việc cật lực để tạo được một cơ ngơi như hôm nay.
Khi
Nhà Văn là Con Bệnh
Tháng
9, 2006 gặp lại Nghiễm sau bao năm, khi anh vừa bước vào ngưỡng tuổi cổ lai hy.
Thanh Tâm Tuyền vừa mất trước đó 6 tháng [03/2006]. Như Phong Khói Sóng mất đã
5 năm [12/2001], Mai Thảo Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền cũng mất trước đó 8
năm [01/1998], cùng năm với Nghiêu Đề Ngọn Tóc Trăm Năm [11/1998]. Họ là những
nghệ sĩ Việt Nam chọn tự do phải sống lưu vong và vùi thân ở một nơi không phải
quê nhà.
Nghiễm
thì vừa gặp nạn ở cái tuổi 70, khi đang đi bộ trên lề anh bị một xe gắn máy
chắc cũng lại xe ôm leo lên tông gẫy xương cổ chân, phải phẫu thuật bó bột gần
2 tuần lễ rồi mà còn sưng đau, vẫn phải chống nạng. Nghiễm giỏi chịu đựng,
không hề than đau chính điều ấy khiến tôi quan tâm. Nghiễm cần được tái khám để
có một ý kiến thứ hai / second opinion. Tôi nghĩ tới một bạn đồng môn còn ở
lại, chuyên khoa chỉnh trực, giảng dạy ở Y khoa, bạn bè gọi anh là người có bàn
tay vàng trong phẫu thuật chấn thương chỉnh hình. Anh cũng có phòng mạch tư
ngoài giờ và tôi đề nghị đưa Nghiễm tới đó. Nghiễm thì lưỡng lự không muốn
nhưng vì tình bạn anh đã không thể nói không.
Không
có địa chỉ, nhưng biết phòng mạch Bs Võ Thành Phụng trên đường Lê Văn Duyệt,
đối diện với trụ sở Tổng Liên Đoàn Lao Công cũ. Với một cổ chân bị gẫy còn rất
xưng đau, thì lên và xuống taxi lúc này không phải là dễ dàng đối với Nghiễm.
Cơn mưa nhiệt đới thì vẫn cứ tầm tã từ nhà cho tới khi Nghiễm bước chân được
vào phía trong phòng mạch. Gặp chị Võ Thành Phụng, khi biết người bệnh là nhà
văn Dương Nghiễm Mậu, thì tôi hầu như không còn vai trò gì nữa. Chị là độc giả
lâu năm và rất quen thuộc với các tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, từ thời báo
Văn, Văn Nghệ và cả Sáng Tạo ngày nào, không kể những cuốn sách của Nghiễm mà
chị đã đọc. Phòng mạch đông khách, do sắp xếp của chị Phụng, Nghiễm là bệnh
nhân mới được ưu tiên khám trước. Anh Phụng cùng tôi đọc những tấm phim chỉ rõ
xương cổ chân gẫy chưa lành nhưng không nhiều di lệch nên không cần thêm phẫu
thuật mà là điều trị bảo tồn. Quá bận bịu với chuyên môn, anh Phụng có lẽ không
là độc giả của Dương Nghiễm Mậu như chị Phụng nhưng Nghiễm đương nhiên trở
thành người bệnh đặc biệt của phòng mạch anh chị hôm đó. Trời vẫn không ngớt
mưa, trong taxi trên đường về, tôi nói đùa với Nghiễm, trong cuộc đời viết văn,
tôi chưa bao giờ có hạnh phúc được gặp được một nữ độc giả tâm đắc và yêu văn
chương đến như vậy. Rất ít bày tỏ, như từ bao giờ Nghiễm chỉ đáp lại bằng một
nụ cười hiền.
2012_
Từ Hải Ngoại Truyện.
Trước
1975, đọc Kinh Kha với con chủy thủ trên đất Tần bất trắc trong Nhan Sắc để
thấy truyện Dương Nghiễm Mậu là những tình huống và thái độ lựa chọn, rất biểu
tượng và nhiều ẩn dụ. Nghiễm viết truyện xưa mà nói tới nay. Kinh Kha qua sông
Dịch, chàng lọt vào được cung điện, khi đã kề đoản đao vào cổ Tần Vương, nhưng
thay vì run sợ, thì Tần Vương lại ngửa mặt cười. Và Kinh Kha chợt hiểu ra tất
cả: giết bạo chúa này sẽ lại có một bạo chúa khác… Và hình ảnh Kinh Kha lầm lũi
rời khỏi cung điện vẫn là nỗi đau không cùng, như một dự báo oan khiên cho ngày
hôm nay.
Từ
Hải Ngoại Truyện được Dương Nghiễm Mậu viết khoảng 10 năm sau 1975, [Gia Định,
2005]. Từ Hải là nhân vật được Dương Nghiễm Mậu khá nâng niu. Phí Ích Bành em
Nghiễm, trao cho tôi một phong bì với 16 trang chữ có ít dòng thủ bút của
Nghiễm. Đọc ngay những trang viết ấy để thấy một Từ Hải Ngoại Truyện nửa anh
hùng nửa thảo khấu, rất khác với nhân vật chính truyện khi chọn con đường bổng
lộc giam thân về chốn triều đình.
Một
trích đoạn về bối cảnh xã hội trong Từ Hải Ngoại Truyện: “một hôm thầy Khổng
ngồi xe đi trên đường thì thấy một bô lão bước tới vái chào, thầy Khổng cho
dừng xe lại, trong chốc lát cả một đám đông trẻ con gầy còm nhếch nhác vây
quanh. Ông lão nói: nghe thiên hạ nói thầy nhiều chữ nên tới xin một ít. Khổng
Tử liền mở cái hòm gỗ lấy ra một cuốn sách trao tận tay cụ già. Cụ già cầm lấy
ngắm nghía rồi lật những trang sách nhìn trên nhìn dưới rồi gấp lại đứa trả
thầy Khổng và nói: tôi không biết dùng cái này để làm gì. Có tiếng cười khả ố
vang lên từ một người trung niên ở trần, đóng khố: sách chẳng có giá trị gì đối
với những người không có cơm ăn và mù chữ. Ông hãy bước chân xuống ruộng, đi
cày trồng lúa rồi lấy thóc mà cho họ thì có ích hơn. Chuyện chỉ kể tới đó không
cho biết hành xử của thầy Khổng ra sao”.
Cũng
trong Từ Hải Ngoại Truyện, Dương Nghiễm Mậu viết về giới quan lại khoa bảng:
“Trong Sưu Tặc Ký những kẻ nổi lên làm giặc thường xuất thân là dân thuyền
chài, kẻ cầy ruộng, người chăn trâu, kẻ đốn củi; tuyệt nhiên không thấy có kẻ
nào đậu tiến sĩ, trạng nguyên. Không tên giặc nào có làm thơ làm phú, hoặc từng
làm quan, làm thầy giáo mà đi làm giặc. Ở những sách khác có viết về kẻ có chữ
bất mãn thường chọn cách viết sớ tâu lên: khi thì đòi chém tham quan ô lại, khi
kêu ca sưu cao thuế nặng khiền dân đen chết đói, khi kêu oan cho lương dân bị
chết chém... Những lá sớ lâm ly thảm thiết này thường không được nghe. Có kẻ
dâng sớ nhiều lần nhưng không thấy cởi bỏ áo mũ trở lại làm phó thường dân mà
vẫn ung ung tại vị hưởng bổng lộc của triều đình. Một đôi kẻ chấp bút có đôi
chút tự trọng thì chọn con đường ở ẩn, không chọn con đường làm giặc nên không
có tên trong Sưu Tặc Ký.”
Dương
Nghiễm Mậu viết những dòng cuối: “Từ những trang sách tới thực tế của chuyến đi
làm ta hoài nghi những ghi chép của người xưa... nhiều sách truyện đã để cho Từ
Hải chết đứng giữa trận tiền. Một anh hùng phải có cái chết anh hùng. Trong
ngoại truyện Từ Hải, cuối cùng Từ Hải đã chết nhưng chết một cách khác, không
phải cách chết đứng giữa trận tiền.”
Rồi
từ chuyện xưa mà hóa ra nay, Dương Nghiễm Mậu viết tiếp: “Nhiều sách tạo ra
những anh hùng như mô tả kẻ tự biến mình thành cây đuốc sống, lấy thân mình bịt
họng súng thần công, ôm bom lao vào quân giặc mà chết. Hầu hết những anh hùng
trong sách đó chẳng bao giờ người ta tìm ra tung tích.”
Tưởng
cũng nên nói thêm, căn nhà của gia đình Nghiễm không xa cây cầu Nguyễn Văn Trổi
trên đường Công Lý thời chống Mỹ, rồi không thể không nhắc tới “cây đuốc sống”
Lê Văn Tám đốt kho xăng Thị Nghè 1945 thời chống Pháp: một nhân vật mà sau này
Trần Huy Liệu, bộ trưởng Bộ Thông tin Tuyên truyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa vào những ngày cuối đời đã trối trăng lại với đám môn sinh: Lê Văn Tám chỉ
là sản phẩm của tuyên truyền và không có thật.
Ba
mươi hai năm sau 1975, qua liên lạc vận động của nhà thơ Nguyễn Quốc Thái,
[cũng là người giới thiệu Phạm Duy đến với Công ty Phương Nam], nhà xuất bản
Phương Nam đã tái bản 4 tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu (Đôi Mắt Trên
Trời, Cũng Đành, Nhan Sắc, Tiếng Sáo Người Em Út), và truyện dài Nguyệt Đồng
Xoài của Lê Xuyên. Ngay sau đó, Vũ Hạnh, tuổi đã ngoài 80, như một đao phủ đã
không nương tay viết bài đấu tố Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, và quy tội Công ty
Phương Nam.
Vũ
Hạnh viết: “Sách của Dương Nghiễm Mậu thì nổi bật tính phản động tha hóa lớp
trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng
đất nước khỏi sự thống trị của bọn đế quốc xâm lược, còn sách của Lê Xuyên là
tính đồi trụy." Vũ Hạnh viết tiếp: “Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc,
phẫn nộ của các bạn đọc khi thấy Công ty Phương Nam ấn hành sách của ông Dương
Nghiễm Mậu… Đem những vũ khí độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một
xúc phạm nặng nề đối với danh dự đất nước.” Và rồi cũng Vũ Hạnh kể lể: “các tác
giả Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử bình
đẳng, không hề gặp bất cứ sự quấy phiền nào." [Sài Gòn Giải Phóng,
22/4/2007].
Tưởng
cũng nên ghi nhận ở đây, trước 1975 đông đảo thế hệ văn nghệ sĩ Miền Nam không
thiếu lòng nhân ái đã hơn một lần cùng vận động ký tên yêu cầu thả Vũ Hạnh. Vũ
Hạnh cũng được Văn Bút Việt Nam che chở, và khi bị kết án tù thì chính linh mục
Thanh Lãng, Chủ tịch Văn Bút đứng ra bảo lãnh, để rồi sau đó Vũ Hạnh lại công
khai ra ngoài họat động.
Sau
1975, nhiều nhà văn nhà báo miền Nam ấy đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân
Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên,
Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường... hay
vừa ra khỏi nhà tù thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương. Nếu còn sống
sót, đều nhất loạt phải gác bút: Dương Nghiễm Mậu sống bằng nghề sơn mài, Lê
Xuyên ngồi bán thuốc lá lẻ ở đầu đường, Trần Lê Nguyễn tác giả kịch Bão Thời
Đại thì phải đứng sạp bán báo để độ nhật, Nguyễn Mộng Giác Đường Một Chiều làm
công nhân sản xuất mì sợi, Trần Hoài Thư Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi ba năm ở tù ra trở
thành Người Bán Cà Rem Dạo.
Nghiễm
vốn tâm lành, nếu có ai nhắc đến chuyện Vũ Hạnh thì anh chỉ cười, giọng vẫn bao
dung, anh tin trên đời người tốt nhiều hơn kẻ xấu, kẻ xấu như vậy rốt cuộc họ
cũng tự thấy sai. Nghiễm có lạc quan quá không vì đã hơn 40 năm chịu khổ ải do
họ gây ra, nay đã tới tuổi gần đất xa trời mà sao họ vẫn“chưa tự thấy sai” chưa
hề biết sám hối. Một người bạn rất quen biết Vũ Hạnh nhận định: sự hung hãn ấy
chỉ như tấm bình phong – một thứ raison d’être, biện minh cho sự hiện hữu của
Vũ Hạnh còn như một người cộng sản.
“Ngày
Xưa Vũ Hạnh” cộng sản nằm vùng vẫn được sống thênh thang, vẫn được đối xử như
một nhà văn [Lý Đợi, talawas 10.5.2007] “Ngày Nay Vũ Hạnh” bên thắng cuộc – tên
bộ sách của Huy Đức, thì vô cảm vênh váo, là tiếng nói hung hãn nhất
trong Hội đồng đánh giá Văn Học Miền Nam tại Thư Viện Quốc Gia. Vẫn một cliché,
vẫn một khẩu hiệu tung hô không suy xuyển: “tác giả là gốc ngụy, nội dung tác phẩm
là nô dịch phản động đồi trụy”. Vũ Hạnh xấp xỉ tuổi Võ Phiến, nay sắp bước vào
cái tuổi 90 vẫn cứ nhân danh “đảng ta, chèo lái con thuyền chở đạo” vẫn không
ngừng truy đuổi cả những thế hệ nhà văn trẻ nối tiếp có khuynh hướng tự do,
điển hình qua bài viết phê phán Nhã Thuyên và Nhóm Mở Miệng với hai cây bút nổi
trội là Lý Đợi và Bùi Chát [Thấy gì từ một luận văn sai lạc, Văn Nghệ 29/2013].
Có
lẽ tấn thảm kịch của Vũ Hạnh cũng như những người cộng sản tha hoá bước vào Thế
Kỷ 21 là sự “nguỵ tín/ mauvaise foi” họ sống với hai bộ mặt, vẫn không ngừng hô
hào cổ võ cho điều mà họ không còn chút tin tưởng. Vũ Hạnh vẫn không
ngưng nặng lời chửi rủa Mỹ, nhưng rồi vẫn gửi con cái đi du học rồi trưởng
thành sống ở Mỹ; Vũ Hạnh vẫn được ra vào nước Mỹ như một con người tự do.
Trở
lại với Nghiễm, nhiều người vẫn nghĩ rằng, sau 1975, ngoài thời gian bị tù đày,
đi làm sơn mài kiếm sống, Dương Nghiễm Mậu không còn viết gì. Điều này có lẽ
không đúng. Nghiễm không có sách mới xuất bản trong nước suốt 40 năm từ sau
1975. Nhưng Dương Nghiễm Mậu như tôi biết, anh vẫn viết, trong đó có “Tự Truyện
Nguyễn Du” như một tác phẩm lớn mà tôi tin là anh vẫn bền bỉ hoàn tất từng
trang sách.
2015_
Mưa California Mưa Sài Gòn
California
vẫn khô hạn, nhưng thản hoặc cũng có những cơn mưa đủ tầm tã để gợi nhớ những
cơn mưa Sài Gòn, nhớ ngày tới thăm bạn cũng vào một buổi chiều mưa như vậy, với
những khúc đường xá thì ngập lụt.
Hạnh
phúc ở xa là có được một người bạn như Nghiễm, cho dù ở đâu và bao giờ có biến
động ra sao thì vẫn cứ là một Dương Nghiễm Mậu với Nhan Sắc ấy, nhất quán và
xác tín như thuở nào: có cái dũng để nói không.
Tôi
nghĩ tới Nghiễm, anh đã sống trong dòng chính sinh hoạt Văn Học Miền Nam, từ
rất sớm cho tới 1975, và 40 năm sau anh vẫn thăng trầm với vận nước ngay trên
quê nhà. Anh là một nhân chứng khả tín cho suốt thời kỳ ấy và điều anh viết ra
được mọi người tin.
Lời
Cuối Cho Bài Viết
Dự
định khởi đầu là một bài viết về cố tri Dương Nghiễm Mậu, với cuộc hành trình
40 năm của anh. Bài viết chỉ với hơn bảy ngàn chữ, nhưng rồi không tránh
được, như một flashback, có thêm những khúc phim trắng đen ngắn của hồi tưởng
rất chung và cả rất riêng tư, khá rời rạc đổ tràn theo những trang viết.
Vậy
mà đã 40 năm qua đi 1975-2015, với đời người như một cơn gió thoảng, với lịch
sử chỉ là một chớp mắt, nhưng lại là một chặng đường rất dài trải nghiệm những
tang thương. Thêm một chớp mắt nữa, thế hệ những người cầm bút 1954-1975 đều
trở về với cát bụi, một số có thể còn được nhắc tới qua tác phẩm nhưng rồi cũng
phải kể tới cuộc sống đầy đoạ và cả những cái chết tức tưởi của họ. Nói
tới Văn Học Miền Nam, không thể không có một “cuốn sách trắng/ livre
Trong
quá trình phục hồi di sản Văn Học Miền Nam, không thể không nhắc tới một tên
tuổi: Trần Hoài Thư – Thư Quán Bản Thảo, anh có hùng tâm và đơn độc trong suốt
nhiều năm nỗ lực khôi phục lại những văn bản của một thời kỳ văn học bị truy
lùng và huỷ diệt.
Không
phải là quá sớm để ghi lại một giai đoạn lịch sử trung thực, chứ không phải là
“phiên bản” nguỵ tạo mà người cộng sản đã và đang làm. Trước khi lịch sử bước
qua một trang khác.
Ngô
Thế Vinh
Sài
Gòn 1975 – California 2015
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/40years-april30/kyuc40nam-ngothevinh-02202015140514.html
No comments:
Post a Comment