Tuesday, December 22, 2015

Người Bán Sách Trên Bãi Biển Nha Trang-Phạm Tín An Ninh


NGƯỜI BÁN SÁCH TRÊN BÃI BIỂN NHA-TRANG
Phạm Tín An Ninh

Tôi trở về thăm quê hương sau hơn mười lăm năm, kể từ ngày vượt biển ra đi. Tôi quyết định điều này qua bao nhiêu đêm ưu tư trằn trọc. Tôi chẳng còn ai thân quen bên ấy để về thăm. Mẹ tôi mất hồi tôi mới lên năm. Cha tôi chết cuối năm 1977 trong trại tù cải tạo Đá Bàn, khi tôi đang ở một trại tù khác tận núi rừng Việt Bắc và mãi năm năm sau tôi mới nhận được tin buồn. Đứa em gái mà tôi thương quí nhất, mang hình ảnh của người mẹ mà tôi chỉ còn mơ hồ trong ký ức, cũng đã kết liễu cuộc đời ở cái tuổi tưởng chừng lúc nào cũng có cả một bầu trời xanh bao la trước mặt. Còn bạn bè tôi, thằng chết, đứa ra đi, gởi thân khắp bốn phương trời. Biết là lần trở về này, rồi cũng chẳng khác gì cái ngày cách đây mười sáu năm, từ một trại tù miền Bắc trở về, tôi bơ vơ lạc lõng trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Tôi cũng không có ý định về đây để tìm lại những kỷ niệm ngày xưa. Những “hang động tuổi thơ”chắc cũng đã biến mất trước bao nhiêu giông tố năm nào bất ngờ ụp xuống. Bây giờ chỉ còn sót lại chút ít trong lòng những người tha phương lưu lạc. Bản thân tôi có quá nhiều đớn đau và mất mát ngay trên chính cái thành phố một thời xinh đẹp này. Tôi sợ phải nhìn lại cái quá khứ hãi hùng và tang thương đó. Tôi về chỉ để làm một điều, mà nếu không làm được, lòng tôi sẽ ray rứt khôn nguôi. Có lẽ đến khi chết tôi vẫn không làm sao nhắm mắt.
Tôi về để tìm lại phần mộ của cha và em tôi, cải táng đem về an táng bên cạnh phần mộ của mẹ tôi trong nghĩa trang gia tộc ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Điều ước mơ của cha tôi, mỗi lần ông kể cho tôi nghe về mẹ tôi và chuyện tình khá lãng mạn nhưng cũng nhiều cay đắng của ông bà. Cha tôi được chôn cất sơ sài trên núi Đá Bàn, bên ngoài một trại tù cải tạo lúc xưa. Còn em gái tôi, được gia đình một cô bạn thân chôn cất tại một nghĩa trang ngoài Đồng Đế. Khó khăn và may mắn lắm tôi mới tìm được tin tức về mộ phần của cha và em tôi sau hơn hai mươi năm. Nhờ một người bạn cùng tù với cha tôi, chính tay ông đã đào huyệt cho cha tôi; và gia đình cô bạn thân của em gái tôi, vượt biên từ năm 1978, hiện định cư tận bên Hòa Lan, cung cấp chi tiết và vẻ cả bản đồ hướng dẫn cho tôi.
Ngồi trên máy bay, tôi lo lắng đủ điều. Mộ em tôi nằm trong một nghĩa trang, dù chưa được xây, nhưng có tấm bia đúc bằng xi-măng nên có lẽ dễ tìm; nhưng phần mộï của cha tôi, nằm trong núi và cái trại cải tạo ngày xưa bây giờ đã biến thành một khu kinh tế mới. Gần ba mươi năm rồi, có biết bao sự đổi thay.
Cuối cùng thì tâm nguyện của tôi cũng hoàn thành được một nửa. Trái ngược với những lo lắng ban đầu, tôi dễ dàng tìm ra phần mộ của cha tôi. Mặc dù bối cảnh chung quanh thay đổi, nhưng bà con ở vùng kinh tế mới này đa số là dân thành phố bị cưởng bách “tự nguyện” lên đây, một số ngày xưa là lính và công chức. Biết đây là mộ của những người tù cải tạo, nên họ thương mà rào lại và giữ gìn. Những dịp cuối năm họ đều thắp hương, tảo mộ và kẻ lại tên trên những tấm bia bằng gỗ, dù đã rong rêu qua bao nhiêu mùa mưa nắng. Riêng phần mộ của em tôi, mò mẫm suốt cả hai tuần tôi vẫn tìm không ra. Cả khu nghĩa trang bây giờ thay đổi. Người chết nhiều quá. Nhiều ngôi mộ mới xây, nhưng cũng có một số đã được cải táng, dời đi nơi khác. Nhà cửa cất san sát bên nghĩa địa. Người sống bây giờ ở chung với người chết. Tôi bắt chướt người xưa khấn vái, xin hồn thiêng em tôi về chỉ cho tôi ngôi mộ của em nằm. Nhưng lời vái của tôi vẫn không thiêng.
Tôi thuê người cải táng phần mộ của cha tôi. Đi từng nhà trong khu kinh tế mới cám ơn lòng tốt của mọi người. Đưa hài cốt của cha tôi về an táng bên cạnh mẹ tôi, trong nghĩa trang gia tộc, thuê thợ xây lại tất cả những ngôi mộ đã bao nhiêu năm không có ai chăm sóc.
Còn một ngày nữa là hết hạn visa. Tôi muốn đi một vòng, tìm lại chút gì của Nha-Trang xưa. Mùa hè Nha-Trang bây giờ dường như nóng bức hơn ngày xưa. Tôi thuê một chiếc xích lô chạy dọc theo con đường Duy-Tân cũ. Vừa để cho mát, vừa muốn tìm lại những lùm cây dương ngày trước, thuở chúng tôi và bạn bè hẹn hò sau những lúc tan trường. Một số lùm dương vẫn còn đó, nhưng trơ trọi, điêu tàn. Tôi bảo anh phu xe cho tôi xuống trường Võ-Tánh. Anh phu xe còn trẻ, thắng xe lại, ngạc nhiên. Tôi hiểu, nên tôi bảo tôi sẽ chỉ đường, anh cứ theo tôi. Ngôi trường cũ, nơi tôi có biết bao kỷ niệm của ba năm theo học, bây giờ không những cái tên trường, mà tất cả đều trở thành xa lạ. Những hàng cây phía trước không còn. Ngôi trường đứng chơ vơ, chẳng còn sót lại chút gì thơ mộng, gây trong tôi một cảm xúc bẽ bàng hơn là thương tiếc. Bất giác tôi nhớ đến em tôi. Đứa em gái xinh đẹp dễ thương, đã cho tôi cái ấm áp của cả một gia đình, trong những ngày chúng tôi lớn lên không có mẹ. Em học bên trường Nữ Trung Học, nhưng thường đến đây chờ tôi để hai anh em cùng ra biển. Em tôi thích tắm biển, nhưng ngại đến đó một mình nên thường rũ tôi đi theo hộ tống. Tôi tha hồ làm tình làm tội mấy anh chàng muốn đến làm quen, tán tỉnh em tôi. Tôi đi bộ dọc theo bãi biển, tìm đến khu có nhiều cây dừa trước trường Bá-Ninh lúc trước, nơi ngày xưa em tôi thường ngồi ở đó.
Tôi đưa mắt nhìn một vòng từ xa. Nơi bậc xi măng tiếp giáp bãi cát, một người tàn tật đang khó nhọc dùng cánh tay duy nhất còn lại giữ thăng bằng trườn xuống. Trông anh ta giống như một con cóc. Len lỏi trong đám người đi tắm, anh hướng về phía tôi ngồi. Lưng anh mang túi vải chứa đầy sách, và kéo lê trên cát một cái túi vải nữa, cũng toàn là sách. Anh lê lết từng quãng, từng quãng ngắn. Bất ngờ anh ta ngước lên. Thấy tôi gật đầu chào, anh ta nhìn tôi cười rạng rỡ, để lộ hàm răng trắng. Khuôn mặt tuấn tú, râu quai hàm, vầng trán cao với mấy sợi tóc vắt ngang rất nghệ sĩ. Anh dùng bàn tay duy nhất lôi một cuốn sách trong túi vải đang nằm trên mặt cát và từ từ mở ra. Tôi liếc qua. Cuốn sách có cái tựa viết bằng tiếng Anh, nói về chuyện chuyến tàu Titanic. Tôi nhớ đến cuốn phim cùng tên, mới quảng cáo rầm rộ trên truyền hình Nauy mà tôi chưa kịp đi xem. Bỗng tôi tròn mắt ngạc nhiên khi nghe anh mở lời chào và giới thiệu cuốn sách bằng tiếng Anh mà anh phát âm rất lưu loát, không thua kém gì những người Việt đã sinh sống lâu năm ở nước ngoài. Anh lầm tưởng tôi là người Nhật hay Đại Hàn gì đó. Tôi thán phục anh vô cùng và bảo với anh tôi là người Việt, định cư ở Nauy, nên trình độ tiếng Anh của tôi chỉ vừa đủ nói dăm ba câu xã giao, chứ làm gì có thể thưởng thức được văn chương. Tôi cám ơn anh và móc ví ra định biếu anh một chút tiền, nhưng anh vội đưa tay ngăn lại
– Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành tiền cho những người còn nghèo khổ hơn tôi.
Anh nhỏ nhẹ bằng một giọng thân thiện và lễ độ.
Câu nói và thái độ của anh làm tôi rất đỗi ngạc nhiên. Vì từ khi trình giấy thông hành vào nước, trước những người mang lon, đội mão đại diện cho cả môt quốc gia mà cũng không có được phong thái thanh tao như anh; và chẳng lẽ ở trong cái thành phố ”mũi nhọn du lịch” này lại còn nhiều người khốn khổ hơn anh ?
Tôi đành mua một cuốn sách để anh vui lòng nhận tiền, nhưng rồi thấy anh cứ loay hoay moi hết túi nọ đến túi kia, để tìm đủ tiền thối lại cho tôi.
Tôi muốn hỏi thăm anh vài câu, nhưng anh đã nhoẻn miệng cười và gật đầu chào tôi rồi vội vàng lết sang mấy người khách nước ngoài đang nằm phơi nắng trên hàng ghế phía trước.
Từ hôm ấy, hình ảnh người tàn tật bán sách trên bãi biển Nha-Trang cứ lẩn quẩn trong đầu và theo tôi về tới Nauy; để rồi nếu có ai đó lỡ lời nói điều gì không mấy tốt về những người nghèo khổ ở Việt nam, tôi có cảm tưởng như đang xúc phạm đến anh, người bán sách khả kính mà tôi bất ngờ được gặp.
Năm sau, tôi lấy một tháng hè về lại Việt nam. Lần này tôi mua vé và nhờ cha cô bạn của em tôi, từ Hòa Lan, cùng về với tôi. Ông là người đã giúp chôn cất em tôi ngày trước. Tôi không ngờ là mình phải về lại Việt nam lần thứ hai. Một điều mà trước đây tôi không hề nghĩ tới.. Nhưng tôi phải làm tròn bổn phận của người anh với cô em gái, mà nếu trước kia tôi lo lắng cho nó chu đáo hơn, biết đâu bây giờ nó còn sống để cho tôi khỏi cảnh côi cút một mình.
Sau một chuyến bay dài, tôi mệt đừ người. Tôi trở về từ vùng Bắc Âu lạnh lẽo, bây giờ lại gặp cái nắng oi nồng của vùng nhiệt đới. Sau khi thuê khách sạn xong, tôi chạy ngay ra biển tắm. Nằm dài trên bãi cát, tôi bỗng nhớ tới người bán sách năm xưa. Tôi thả bộ theo bờ biển về hướng mấy cái lều có bóng dáng nhiều người ngoại quốc đang từ khách sạn kéo ra, bỗng mắt tôi sáng lên khi nhìn thấy người tàn tật đang lê lết theo sau. Cũng hai cái túi vải đựng sách. Đúng là anh tàn tật bán sách năm trước chứ còn ai. Tôi mừng thầm như sắp sửa được gặp lại con người mà bấy lâu nay tôi thường nghĩ tới với lòng mến mộ. Tôi suy nghĩ làm cách nào để anh ta vui lòng nhận sự giúp đỡ của mình. Nhưng người tàn tật lúc nào cũng bám sát vào những người nước ngoài. Tôi để ý thấy người ta cũng không mua sách và chỉ cho anh tiền. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta cười, hớn hở nhận tiền rất điệu nghệ, không nghe anh nói cái câu thật tử tế mà một năm trước anh đã lễ phép nói vơiù tôi “Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành cho những người còn nghèo khổ hơn tôi”. Một cái gì đó thật đẹp vừa bị sụp đổ trong lòng. Tôi cảm thấy người nóng hừng hực. Không biết là sức nóng giữa ban trưa hay vì máu nóng bốc lên đầu. Tôi cắm đầu chạy lao vào những đợt sóng cuồng nộ đang từ ngoài khơi đổ vào bờ.
Nước biển trong xanh, sóng biển như những cánh tay ôm tôi vào lòng vuốt ve, dỗ dành. Mặt nước mênh mông, trãi rộng đến những dãy núi mờ xanh tận cuối chân trời. Tôi nghe văng vẳng trong không gian như có ai đang dạo đàn bản Nha Trang Ngày Về. Thiên nhiên phần nào giúp tâm hồn con người rộng mở và dễ cảm thông hơn.
Sau một hồi quần với sóng biển, tôi cũng tạm quên người tàn tật bán sách đã làm tôi hụt hẫng. Nhưng khi vừa bước lên bờ cát thì tôi lại trông thấy anh ta đang o bế mấy người nước ngoài và đưa tay xin cả thức ăn thừa. Tôi nghi ngờ, có thể là người tàn tật này không phải là người tàn tật năm xưa. Tôi đến gần hỏi thăm. Nhưng chưa hỏi hết câu hắn đã “Đ.m. cái khứa đói rã họng ra mà còn làm cao ấy hả. Chết mẹ nó rồi..”
Chỉ nghe cái giọng lỗ mãng của hắn, tôi đủ biết chắc hắn ta không phải là anh – người tàn tật bán sách mà năm trước tôi đã gặp -. Tôi theo người bán sách này với ý định hỏi thăm thêm về anh cho ra lẽ, nhưng thấy hắn ta chẳng mấy tha thiết. Hắn di chuyển chậm, nhưng mắt hắn lại quan sát thật nhanh về những đám người đang xuống bãi ở quãng xa. Và khi đi ngang qua chỗ ngồi của người đàn bà bán cua luột, hắn hất hàm bảo: ” Đó, vợ khứa đó ! ”
Tôi liền chụp ngay cơ hội, hy vọng tìm ra manh mối. Nhưng khi tôi lân la lại gần, thấy chị bán cua luột này có vẻ nghiêm trang khác với những người bán hàng rong bình thường, tôi không biết phải bắt đầu làm sao. Tôi mua hết con cua này tới con cua khác mà chẳng ăn con nào.
Và cứ mỗi lần chị định quảy gánh đi chỗ khác, tôi gọi giật lại mua thêm một con nữa để giữ chân chị. Vừa lúc chị nhận ra người khách mua cua này cũng có gì khác thường, tôi buột miệng : “Chị là vợ của người tàn tật bán sách trên bãi biển này mấy năm trước ?”. Chị ngớ người ra, im lặng nhìn tôi. Có lẽ thấy tôi là một người xa lạ sao lại tò mò vào một chuyện riêng tư. Tôi kể cho chị nghe cái cảm tình đặc biệt mà tôi đã dành cho anh ấy. Tôi muốn tìm cách giúp anh một phần nào nỗi thống khổ tật nguyền. Tôi tha thiết muốn biết về anh. Dường như những lời chân thật của tôi làm cho chị xúc động. Chị nhìn tôi, đôi mắt thật buồn :
– Em không phải là vợ của anh ấy. Tụi em cùng cảnh khổ nên đùm bọc lấy nhau mà sống. Một số người đùa, gán ghép tụi em rồi quen gọi thế thôi, anh ạ. Anh ấy đã chết cách nay hơn tám tháng. Em đã lo chôn cất anh ấy.
Lòng tôi thắt lại, một phần vì cảm thương anh trong cảnh khốn cùng, một phần ân hận là giá năm trước mình tìm cách giúp đỡ anh, biết đâu đã cứu được anh. Tôi có ý muốn nhờ chị đưa tôi ra mộ để thắp cho anh nén hương. Chị ngại ngùng nhưng cuối cùng gật đầu hẹn bốn giờ chiều chờ tôi trước khách sạn tôi ở.
Tôi thuê chiếc taxi, và xin phép cùng ngồi với chị ở băng ghế sau để dễ dàng trò chuyện. Trên đường ra nghĩa trang, chị say sưa tâm tình cùng tôi, như từ lâu lắm chị không có dịp nói ra những điều bao năm dấu kín trong lòng. Chị tên Trang. Cha chị trước kia là một trung sĩ địa phương quân, bị thương năm 1968, trong trận tết Mậu Thân, nên được giải ngũ. Mẹ chị mất từ khi chị còn bé lắm. Cha chị không chịu tục huyền mà ở vậy nuôi đứa con độc nhất của mình. Nhờ số tiền trợ cấp ban đầu, ông mua được một căn nhà tôn trong khu dành cho thương phế binh, nằm phía sau ga xe lửa. Ông xin được cái chân bán vé cho hãng xe đò Phi Long ở bến xe Xóm Mới. Lương ba cọc ba đồng cộng với tiền hưu bỗng hàng tháng, ông dành dụm cố lo lắng cho cô con gái học hành. Năm 1974, xong lớp 12, chị thi đậu vào trường sư phạm. Sau ngày Nha-Trang “giải phóng”, chị bị loại ra bởi lý lịch “ngụy quân” của cha. Lúc này, gia đình trở nên bi đát. Cha chị, tất nhiên, không còn được lãnh tiền hưu bỗng ngày trước, chị không tìm ra bất cứ việc gì làm. Cuối cùng cha chị đành phải bán một nửa căn nhà vốn đã chật chội để mua một chiếc xích lô làm phương tiện sinh nhai. Còn chị thì đi bán hàng rong từ dạo ấy.
– Đến bây giờ ông cụ vẫn còn đạp xích lô ? Tôi tò mò hỏi.
– Ông mất lâu rồi anh ạ. Tội nghiệp, ông thương anh Bá lắm, xem anh ấy như con.
Tôi ngạc nhiên :
– Anh Bá nào ?
– Người tàn tật bán sách đó.
Đến bây giờ tôi mới biết tên của anh.
Chị cho biết anh Bá ngày xưa là trung úy phi công. Máy bay của anh bị bắn rơi vào những ngày Sài gòn nguy khốn, khi yểm trơ cho mặt trận Long Khánh của Sư Đoàn Tướng Đảo.
Anh được anh em bộ binh tiếp cứu, nhưng anh bị thương rất nặng, phải đưa về tổng y viện Cộng Hòa. Sau cuộc giải phẫu khá dài, anh tỉnh lại. Nhưng khi biết được mình bị mất hai chân và một cánh tay, anh ngất xỉu và hôn mê suốt cả một tuần. Ngay sau khi Sài gòn vừa “giải phóng”, anh bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa khi vết thương chưa lành. Gần hai tháng sau cha em gặp anh ấy trên bến xe Xóm Mới. Biết được phần nào hoàn cảnh thương tâm, cha em lấy xích lô chở anh về nhà chăm sóc vết thương và anh sống với cha con em từ dạo ấy.
– Anh ấy không có thân nhân. Tôi hỏi
– Anh có một cô em gái ở đây, nhưng mà chết lâu rồi. Ban đầu không nghe anh nói điều này. Mãi sau này thấy trên đầu giường của anh có thờ tấm ảnh của một cô con gái và có nhiều đêm rất khuya anh ngồi bất động trước tấm ảnh, cha em hỏi mấy lần, anh mới bảo đó là cô em gái duy nhất của anh.
– Anh không còn bạn bè ?
– Nghe nói anh đang học một khóa phi hành ở đâu bên Mỹ, rồi nhờ có trình độ anh ngữ khá, anh được lưu lại Mỹ làm sĩ quan liên lạc không quân. Nghe tin miền Nam nguy khốn, anh tình nguyện xin về chiến đấu. Vừa về nước, anh ra chiến trường ngay và bị nạn khi đang bay phi vụ thứ hai. Có lẽ vì vậy mà không nghe anh nhắc tới bạn bè.
Xe dừng lại, tôi bước xuống trả tiền và bảo anh tài xế chờ tôi hoặc có thể quay lại sau 30 phút. Tôi bước vào nghĩa trang khi lòng còn vương vấn một câu chuyện buồn. Tiếng chuông nhà thờ từ đâu vọng lại càng làm cho lòng tôi chùn xuống. Đi quanh co một lúc, chị Trang bảo tôi dừng lại và chỉ cho tôi ngôi mộ của anh Bá, nằm bên cạnh ngôi mộ của cô em gái. Cả hai ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, trên tấm bia có cả tấm ảnh
. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên mộ bia anh Bá có hình một thập tự giá, vì đây là nghĩa trang Phật giáo. Tôi đến trước mộ anh, thắp ba nén hương thâàm khấn vái cho anh được sống an bình trong một thế giới chẳng còn thù hận, và nói lên lòng cảm mến của một người đồng đội cũ. Tôi nhìn kỹ tấm ảnh của anh trên mộ bia, tấm ảnh chụp lúc anh còn là sinh viên sĩ quan không quân, phong độ, hào hùng. Trông khuôn mặt quen quen. Có lẽ do bộ quân phục làm tôi nhớ tới khuôn mặt của những bạn bè ngày trước.
Tôi bước sang mộ cô em gái, thắp ba nén hương cho một người không hề quen biết. Tôi tò mò bước lên xem tấm ảnh trên mộ bia. Bỗng đầu óc tôi choáng váng, mắt tôi mờ đi như chẳng còn trông thấy những gì trước mặt. Trời ơi, có điều gì lầm lẫn hay không ? Người trong tấm ảnh chính là An Bình, cô em gái yêu dấu của tôi.
Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh, mở đôi mắt thật to để nhìn kỷ lại tấm ảnh. Không thể lầm lẫn được. Chính tấm ảnh của em tôi mà tôi vẫn treo trên bàn thờ cùng với ảnh của cha và mẹ của tôi. Tôi vẫn thường đứng hằng giờ trước những tấm ảnh này mỗi khi thấy mình quá đỗi cô đơn trên xứ lạ quê người. Làm sao tôi có thể nhầm lẫn được. Bỗng dưng tôi khóc sụt sùi.
Trang nhìn tôi ngạc nhiên :
– Anh có quen biết em gái anh Bá ?
Tôi im lặng không trả lời, bảo chị cùng đi với tôi. Chiếc taxi vẫn còn đợi tôi tự nãy giờ. Tôi móc bóp tìm địa chỉ của cha cô bạn thân của em tôi, đã từ Hòa Lan về đây trước tôi hai ngày, và chúng tôi hẹn gặp nhau ngày mai. Bác trọ ở nhà một người em trong khu cầu Xóm Bóng. Tôi đưa địa chỉ cho anh tài xế. Chỉ hơn năm phút sau là anh ta đã tìm được. May mắn là bác có ở nhà. Tôi xin lỗi bác là đã đến tìm bác sớm hơn ngày hẹn. Báo cho bác là tôi đã bất ngờ tìm được mộ của em tôi. Xin bác cùng đi với tôi ra nghĩa trang để xác nhận lại vị trí ngôi mộ của em tôi mà ngày trước bác đã có lòng chôn cất hộ.
Trở lại nghĩa trang, tôi đề nghị bác dẫn đường, như muốn để xác minh chắc chắn là bác biết rõ ngôi mộ ấy. Bác mò mẫm gần 30 phút mới tìm được ngôi mộ của em tôi. Bác ngạc nhiên là ngày ấy bác chỉ kịp dựng một tấm bia, chứ không có xây mộ đá như bây giờ, và trên bia cũng chỉ có tên chứ không có hình ảnh của em tôi.
Tự nãy giờ Trang vẫn còn ngạc nhiên, không biết rõ việc gì. Tại sao cô gái này là em gái duy nhất của anh Bá mà cùng là em gái của tôi ? Tôi xin lỗi vì xúc động quá, tôi sẽ kể cho Trang nghe trên đuòng về nhà.
Tôi đưa cha cô bạn của em tôi về lại nhà trọ, cám ơn bác và hẹn gặp lại bác vài hôm sau. Trên đường về, tôi kể lại cho Trang nghe về hoàn cảnh của gia đình tôi. Tôi đi lính xa nhà, mỗi năm chỉ về phép một đôi lần.
An Bình, đứa em gái duy nhất của tôi ở Nha-Trang với cha tôi. Ông là một thầy giáo, ngày xưa dạy ở trường Pháp-Việt lúc tôi mới lên ba. Sau ngày về hưu ông được bà con mời làm chủ tịch hội đồng xã. Ông bị bắt vào trại cải tạo Đá Bàn sau ngày Nha-Trang ”giải phóng”, rồi vì tuổi già sức yếu, không chịu nổi sự tra tấn, ông đã chết gần một năm sau đó. Em gái tôi nối nghiệp cha, sau khi tốt nghiệp ở trường sư phạm Qui Nhơn, vì hoàn cảnh gia đình, được về dạy ở Nha trang. Có lần tôi về phép, em kể cho tôi nghe về mối tình của em với một chàng sinh viên sĩ quan không quân. Em có đưa cả tấm ảnh cho tôi xem và hẹn sẽ giới thiệu với tôi khi chàng ta ở Mỹ trở về. Em lo lắng vì anh là người Bắc di cư, công giáo, không hiểu có khó khăn gì cho cuộc hôn nhân. Tôi bảo nó yên tâm, ba tôi theo tây học, nên ông quan niệm về tôn giáo rộng rãi lắm.
Sau khi cha tôi vào trại cải tạo, căn nhà của chúng tôi bị chính quyền mới tịch thu để làm hợp tác xã mua bán. Em tôi không được tiếp tục dạy học nữa nên ra Xóm Bóng ở chung với cô bạn học nối khố tự ngày xưa, chắt chiu số tiền còn dành dụm được để thăm nuôi cha tôi. Ngay sau ngày Sài-gòn mất, em có vào tìm thăm tôi và người yêu của cô. Hơn hai tuần đi thăm hỏi khắp nơi, em tôi về nằm khóc cả mấy ngày liền, nói với tôi là người yêu của nó đã chết mất xác ở chiến trường Long-Khánh. Tôi an ủi em tôi, bảo nó về Nha-Trang cố gắng thay tôi lo lắng cho cha, chờ ngày cha và tôi trở về sum họp. Tôi vào tù hơn sáu tháng, hai lần được phép gởi thư về nhà, vẫn không thấy em gái hồi âm. Cho mãi trước khi được chuyển ra Bắc, tôi mới nhận được thư của cô bạn thân của nó, báo tin là nó không kiếm được việc gì làm, túng quẫn, buồn chán, nên đã uống nguyên một ống thuốc ngủ. Gia đình cô chở vào bệnh viện, nhưng không cứu được, vì không tìm ra thuốc giải.
Chị Trang suy nghĩ miên man và như chợt nhớ ra được điều gì. Chị bảo khi còn sống, anh Bá không đi làm vào ngày chủ nhật. Anh đi lễ nhà thờ rồi ra mộ suốt cả ngày. Chính anh đã dành dùm tiền bạc thuê người xây lại ngôi mộ và mua phần đất dành cho mình. Khi chôn cất anh xong, chị tìm thấy một tập nhật ký dấu kỹ dưới đầu giường. Chị vẫn còn để trên bàn thờ, chờ ngày giáp năm thì đốt luôn. Chị bảo tôi cùng về nhà với chị, để chị trao lại cuốn nhật ký, kỷ vật duy nhất của một người cùng sống chung trong cảnh khốn cùng với cha con chị trong gần ba mươi năm, và bây giờ mới biết đó là người yêu của cô em gái thương quí của tôi.
Chị bảo taxi dừng lại trước một ngõ tắt phía sau ga xe lửa. Tôi trả tiền, theo chị băng qua hai con đường sắt, đi quanh co theo mấy con hẻm thì đến nhà. Tôi xin phép thắp hương trước bàn thờ của ba chị và Bá, trên một cái kệ nhỏ bằng gổ treo trên vách. Tôi khẩn khoản xin chị nhận một số tiền để chăm sóc ngôi mộ của ông cụ, em gái tôi và Bá, một ít làm vốn buôn bán để đỡ vất vả hơn xưa. Tôi xin nhận Trang là cô em kết nghĩa và từ nay Trang là ngưỡi thân quen duy nhất của tôi còn lại ở Nha-Trang. Chia tay, tôi đi bộ về khách sạn, cầm theo cuốn nhật ký trên tay, mà cứ tưởng như mình vừa nhận một món quà quí giá của người thân gởi về từ một cõi nào đó thật xa xăm.
Ngày 2/5
Vết thương còn đau đớn và máu còn thấm đỏ qua mấy lớp băng, vậy mà mình bị người ta đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa, trong hoàn cảnh tứ cố vô thân. May mắn nhờ một ân nhân nghèo nhưng lại giàu lòng bác ái, đùm bọc, nuôi nấng và chăm sóc vết thương.
Nhiều lần, trong vực sâu tuyệt vọng, mình không muốn sống thêm một ngày nào nữa, nhưng lòng mình lúc nào cũng hướng về chúa Kitô, và xin phó thác tất cả ở nơi Ngài.
…….
Ngày 20.6
Cuối cùng, thì mình quyết định trở về Nha-trang, bởi lẽ mình không còn có một chỗ nào khác để trở về. Mình về đây để tìm lại những kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời mình, của những ngày mình còn có An-Bình. Từ ngày gặp An-Bình, mình nghĩ là mình đã thuộc về Nha-Trang, miền thùy dương rạt rào thơ mộng này. Đau đớn thay, hôm nay mình chẳng phải là mình ngày trước, mà chỉ là một kẻ tật nguyền thê thảm. Mình sẽ không bao giờ gặp lại An-Bình, mà chỉ mong về đây để được sống với hình ảnh của nàng
Ngày 08/7
Ngày hôm nay có lẽ là ngày đau đớn nhất trong đời mình. Đau đớn hơn cả cái ngày mình tỉnh dậy trong quân y viện và biết mình trở thành một người tàn phế. Mình lê lết khắp nơi hỏi thăm tin tức An-Bình, được biết là em đã quyên sinh. An-Bình ơi, xin em hãy tha thứ cho anh. Trong vận cùng của một đất nước mà anh chỉ là một thằng lính hèn mọn nhỏ nhoi, làm sao có thể giữ được bầu trời Nha-Trang này cho em, và cho những kỷ niệm của chúng mình..
Một hồi chuông nhà thờ làm tôi giật mình. Ngẫng đầu lên mới biết mình đang đừng trước nhà thờ đá. Tôi thẩn thờ bước lên những bậc “tam cấp”, đến trước tượng Đức Mẹ. Tôi là người ngoại đạo, không biết phải cầu nguyện như thế nào. Tôi chấp hai tay trước ngực, kính cẩn xin Thiên Chúa Từ Bi và Đức Mẹ Maria cứu vớt linh hồn của hai người hoạn nạn và xin cho họ được cùng phục sinh với Chúa để tình yêu của họ mãi mãi vĩnh hằng trong một thế giới bình an, không còn có hận thù.
Tôi không còn ý định dời ngôi mộ em tôi về bên cạnh cha mẹ tôi. Tôi về quê, quỳ trước mộ cha mẹ tôi để xin phép được xây lại hai ngôi mộ của em tôi và Bá chung trong một vòng thành. Không ai có quyền chia rẽ họ thêm một lần nữa, dù bây giờ chỉ còn là một thế giới vô hình.
Cũng như lần trước, ngày cuối cùng, tôi thuê xích lô đi một vòng dọc theo con đường Duy Tân cũ. Con đường đẹp nhất của Nha-Trang. Những cơ sở công quyền, những dinh thự của cán bộ bây giờ đựơc dựng lên nguy nga đồ sộ. Nhìn lá cờ màu đỏ trên mấy nóc nhà, bỗng dưng tôi lạnh toát cả người. Chẳng lẽ những thay đổi “to lớn”ấy mà phải xây trên máu xương, trên những đớn đau, chia lìa thảm khốc của bao nhiêu thế hệ đã từng một thời góp sức tạo nên cái thành phố hiền hòa thơ mộng này. Bỗng chốc, tôi không còn nhìn thấy thành phố Nha-Trang đâu nữa. Trước mắt tôi bây giờ chỉ còn là một bãi tha ma, dài ra, vô tận. Tôi nghe trong gió văng vẳng tiếng đàn dạo bài Nha-Trang, mà ngày xưa đài phát thanh Nha-Trang dùng làm nhạc hiệu mở đầu. Tôi nhớ tới cái chết thảm khốc của nhạc sĩ Minh-Kỳ, tác giả bản nhạc quen thuộc một thời này, ông cũng đã bị giết vào tháng 8/75, khi cùng bị nhốt chung với tôi trong trại tù cải tạo An Dưỡng, Biên Hòa.
Phạm Tín An Ninh
(Vương Quôc Na-Uy)


Mỹ Tăng Lãi Suất Rồi Sao


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo ngày 151217

Dư chấn bất tận của những quyết định không phối hợp  

Việc Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ nâng lãi suất khỏi số không ngày 16 vừa qua sẽ đi vào lịch sử. Lịch sử ấy ghi lại rằng mọi sự khởi đầu vào năm 2008. Quá xa cho người Mỹ!

Vừa bóc lịch năm 2008, thiên hạ choáng váng vì dầu thô lần đầu tiên vượt giá 100 đồng một thùng. Chưa có gì đáng sợ vì sau đấy là các cuộc biểu tình của dân Tây Tạng ở mọi nơi đuốc Thế vận đi qua. Chưa đáng kể, vì sau đấy là Thế vận hội Bắc Kinh, báo hiệu sự xuất hiện của một cường quốc kinh tế, y như Thế vận hội tại Hán Thành năm 1988 của Đại Hàn Dân Quốc (Nam Hàn). Chưa đáng ghê vì cũng ngày tám Tháng Tám năm 2008 ấy, chiến xa Liên bang Nga tiến vào Georgia để “giải phóng” hai khu vực tự trị trong lãnh thổ quốc gia này. Chưa đáng nhớ vì Hoa Kỳ đã tạm ổn định được tình hình tại Iraq sau khi Tổng thống George W. Bush quyết định dồn quân đánh tới từ đầu năm 2007, để sẽ rút lui.

Nhưng đã trễ rồi, sau khi trái bóng gia cư bị bể từ cuối năm 2006, vụ khủng hoảng tài chánh tại Hoa Kỳ ngày 15 Tháng Chín năm 2008 đó làm cả thế giới bị Tổng suy trầm...

Kết quả? Lần đầu tiên trong lịch sử một người lai da đen lên làm Tổng thống Mỹ, là Nghị sĩ vô thành tích Barack Obama. Và lãi suất Hoa Kỳ tụt xuống đáy rồi nằm dưới đó trong bảy năm liền. Đấy là lần đầu tiên mà có lãi suất mấp mé số không kể từ khi Ngân hàng Trung ương Anh quốc bắt đầu ghi thống kê về lãi suất, vào năm 1694. Lâu lắm rồi.

Hậu quả? Hậu quả là binh lính Mỹ triệt thoái trên nhiều chiến trường và Đô la Mỹ tràn ngập mọi thị trường. Từ đấy thế giới loạn to!

Bài này xin thu gọn vào mối loạn kinh tế. Chuyện khác sẽ từ từ nói sau. Ngày Giời Tháng Phật mà!


***

Có phải là đây chu kỳ “bảy năm bò gầy” được thấy viết trong Thánh Kinh?

Bốn năm sau khi hạ lãi suất và ba lần ào ạt bơm tiền theo phương pháp QE (quantitative easing, nâng mức lưu hoạt có định lượng), Ngân hàng Trung ương Mỹ đã thông báo từ Tháng Năm năm 2012 việc “vuốt nhọn chánh sách tiền tệ”. Là sẽ giảm dần việc bơm tiền và trở lại trạng thái bình thường, tức là sẽ nâng lãi suất, khi tình hình kinh tế Hoa Kỳ có dấu hiệu cải tiến. Từ thời điểm ấy rồi, các thị trường đã bị chấn động vì giai đoạn tiền nhiều và rẻ sẽ chấm dứt.

Nhưng chấn động rồi lại thôi vì lãi suất Mỹ vẫn bò ngang dưới sàn.

Phải tới năm nay, vào Quý IV của một năm quá dài, người ta mới có thể xác định rằng Ngân hàng Trung ương Mỹ sẽ nâng lãi suất cuối kỳ họp ngày 15-16 của Hội đồng Tiền tệ FOMC. Vì vậy, thị trường đều đoán trước về quyết định tăng lãi suất. Chẳng ai còn hồi hộp nữa.

Khi mọi việc tuần tự xảy ra như dự đoán, ta mới nhìn lại chuyện xưa. Mọi sự, từ nạn khủng bố đến chuyện bể bóng, đã bắt đầu khi Thế kỷ 21 chào đời, tạm chấm vào năm 2001 cho tiện.

Khi ấy, về mặt kinh tế, Hoa Kỳ bị suy trầm vì vụ bể bóng cổ phiếu và Ngân hàng Trung ương đã (cũng) hạ lãi suất quá lâu nên thổi lên trái bóng gia cư. Qua năm 2004, khi lãi suất được tăng, bong bóng bắt đầu xì và bể. Cuối năm 2007, kinh tế lại bị suy trầm nữa, là bối cảnh cùa vụ khủng hoảng tài chánh 2008.

Quy luật kinh tế nhập môn: tiền nhiều và rẻ thường thổi lên bong bóng đầu tư, không gia cư thì cổ phiếu hay trái phiếu. Quy luật kinh tế toàn cầu hóa: khi lãi suất Hoa Kỳ được hạ thì đồng bạc Hoa Kỳ, ngoại tệ dự trữ số một của thế giới, chảy lênh láng qua xứ khác để tìm mức lời cao hơn. Nhiều quốc gia vốn chưa quen với hiện tượng ấy lại thấy rằng đấy là cơ hội bằng vàng. Họ vay tiền rẻ để kiếm lời cao, đến độ lệ thuộc vào tư bản nhập cảng. Nam Phi, Turkey, hay các nước Trung Nam Mỹ đều ngất ngây với cơ hội mới, rồi chết ngất khi Mỹ kim hết sụt giá mà bắt đầu tăng.

Cũng vì tiền nhiều mà rẻ và đa số thương phẩm lại được giao dịch bằng đô la Mỹ, giá thương phẩm bị sụt làm các nước xuất cảng thương phẩm bắt đầu điêu đứng.

Khi ấy, người ta mới thấy ra một nghịch lý. Cả thế giới nói đến ngày tàn của tư bản chủ nghĩa ngay trên quê hương của nó là Hoa Kỳ. Nhưng cả thế giới lại bị ảnh hưởng bởi quyết định của một ngân hàng trung ương độc lập, là Hội đồng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, Federal Board of Reserve và một cơ chế bí hiểm là Hội đồng Thống đốc Fed’s Governing Board. Cái bất công của nhân loại là Ngân hàng Trung ương Mỹ lấy quyết định căn cứ trên tình hình kinh tế và quyền lợi của nước Mỹ mặc dù quyết định ấy có thể gieo thêm sóng gió chốn nhân gian.

Khi tiền Mỹ rẻ ai cũng có thể suy luận rằng Mỹ ngu Mỹ yếu nên mượn tiền Mỹ mà xài cho sướng. Khi tiền Mỹ lên giá, quá mạnh kể từ đầu năm nay, thì mọi người rên la là Mỹ gian và Mỹ ác. Là chuyện hôm nay!

Cái bất công lớn hơn của nhân loại là không chỉ có nước Mỹ. Ngân hàng trung ương của các khối kinh tế mạnh như Euro hay Nhật Bản cũng lấy quyết định căn cứ trên nhu cầu của mình. Và thế giới sẽ phải “kiến cơ nhi tác”, theo đấy mà điều chỉnh. Đấy là về chuyên môn kinh tế. Chứ về nhận thức thì vẫn là các cường quốc dân chủ Âu-Mỹ và Nhật Bản mới có tội.

Y hệt như lý luận của quân khủng bố!

Đã vậy, ba khối Âu-Mỹ-Nhật lại có quyết định trái chiều. Hoa Kỳ sẽ tuần tự nâng lãi suất khiến tiền Mỹ còn tăng, trong khi Ngân hàng Trung ương Âu châu ECB và Ngân hàng Trung ương Nhật Bản BOJ phải tiếp tục bơm tiền làm đồng Euro và Yen Nhật sẽ còn xuống giá so với tiền Mỹ.

Ở giữa, các nước đang phát triển sẽ ráng mà chịu.

Quyết định tiền tệ vừa qua tại Hoa Kỳ mở ra một giai đoạn mới là các nước công nghiệp hóa Âu, Mỹ, Nhật không còn phối hợp chánh sách với nhau mà lại đi trái chiều, theo cách “đèn nhà nào nhà ấy rạng, mạng người nào người ấy giữ”. Quả nhiên, hôm Thứ Sáu 18 Tháng 12, Ngân hàng Trung ương Nhật tung thêm một đòn tiền tệ lại làm các thị trường co giật. Vì vậy, mạng của các nước đang phát triển thì còn khó giữ hơn nữa.

Trong số này, có một nước đang phát triển mà muốn thủ vai cường quốc là Trung Cộng lại mệt hơn cả. Vì đồng Nguyên được nhận vào rổ ngoại tệ dự trữ quý tộc là Quyền Đặc Trích Special Drawing Right, Bắc Kinh hài lòng là đồng Nguyên sẽ sụt giá, nên xuất cảng dễ hơn và rẻ hơn. Nhưng mặt trái của đồng tiền này là tư bản tẩu tán mạnh hơn và thị trường hối đoái của họ sẽ bị chấn động nhiều hơn.

Sau mấy thập niên có phối hợp với nhau, kể từ năm 2016, các Ngân hàng Trung ương trên thế giới sẽ mạnh ai nấy làm, và vô tình choảng nhau dữ dội vì quyết định của xứ này vẫn ảnh hưởng đến đồng tiền của xứ khác. Người ta có thể gọi đó là “trận chiến ngoại tệ toàn cầu”. Nó đã xuất hiện từ năm 2015 và gia tăng cường độ trong năm tới.

Chẳng khác gì chiến lược chống khủng bố của xứ này cũng khiến làn sóng đen của khủng bố chảy qua xứ khác….

Thị trường và chiến trường toàn cầu đang thiếu hụt một sản phẩm căn bản là “phối hợp”. Sau Giáng Sinh, chúng ta sẽ linh tinh về những chuyện đó.




Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Trong


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt Ngày 151221
"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài"


Vì khủng bố nội hóa từ bên trong….


“Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài” là một mục định kỳ từ 10 năm nay để “giải ảo” về những điều tưởng như là biết về nước Mỹ. Hoa Kỳ là một xã hội phức tạp hơn những gì chúng ta thường nghĩ, dù tưởng rằng đã có kinh nghiệm về nước Mỹ tại Việt Nam rồi của người Việt tại Mỹ. Vì quá phức tạp nên mình vẫn nên nghĩ rằng mới chỉ nhìn từ… bên ngoài dù đã sống ở bên trong!

Đánh dấu 10 năm viết về nước Mỹ, kỳ này, người viết xin nhìn ngược từ trong ra ngoài. Chỉ vì nạn khủng bố….

***

Sau hai vụ khủng bố liên tiếp, tại Paris và San Bernardino, người dân Mỹ đã lại có thói quen hốt hoảng. Và theo truyền thống, các chính trị gia khai thác sự hốt hoảng ấy và gây thêm nhiễu âm lẫn ảo giác cho một vấn đề khó có giải pháp toàn hảo.

Chúng ta hãy khởi đi từ đấy.

Trước hết, về cái thuật khai thác sự hốt hoảng, việc tỷ phú Donald Trump, với người viết thì chỉ là “Con Vịt Donald” quang quác, đưa ra chủ trương cấm cho dân Hồi giáo nhập cư vào Mỹ đã được truyền thông thổi lên trang nhất và phất hình vào giờ cao điểm. Cũng dễ hiểu thôi cái lập trường nhuốm mùi phát xít ấy, vì các cuộc khảo sát nóng hổi cho biết vài sự thật lạnh mình về dân Mỹ: hơn một phần ba, là 36%, đồng ý với việc cấm cửa người Hồi giáo; 61% cho là vì nhu cầu an ninh, Hoa Kỳ nên tăng cường thanh lọc dân tỵ nạn đến từ Syria; gần một nửa, là 49%, nói rằng họ sợ gia đình và bản thân sẽ là nạn nhân của khủng bố; và 83% thành phần ghi danh đi bầu thì tin rằng trong tương lai ngắn hạn Hoa Kỳ sẽ bị thiệt mạng lớn vì khủng bố.

Một quốc gia quá hùng mạnh thường lạc quan nghĩ rằng ta làm gì cũng đuợc nhưng một dân tộc quá trẻ nên sau khi hồ hởi sảng lai hay hốt hoảng bậy. Đấy là lúc họ nhìn lên Thượng Đế: O My God! Các chính trị gia cứ thế mà kiếm phiếu….

Xin hãy kiểm điểm lại.

Ngày tám Tháng 12, Hạ viện Hoa Kỳ biểu quyết một biện pháp giới hạn việc cho vào nước Mỹ những ai đã đi qua hai nước Iraq và Syria sau ngày một Tháng Ba năm 2011. Lý do: nội chiến Syria bùng nổ từ ngày 15 Tháng Ba năm đó. Biện pháp thanh lọc ấy cũng đòi các nước tham dự chương trình miễn chiếu khán (visa waiver program) phải cho nhà chức trách Mỹ những thông tin về chống khủng bố và cung cấp “thẻ thông hành sinh lý” – lý lịch sinh học của du khách – nếu không thì bị gạt khỏi chương trình.

Song song, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết là đang mở cuộc điều tra về việc hung thủ Tasheen Malik lại được vào Mỹ năm 2014 theo diện đám cưới với hôn phu là Syed Farook, một thanh viên gốc Pakistan sinh tại Hoa Kỳ. Lý do của các biện pháp bảo vệ an ninh như vậy xuất phát từ vụ khủng bố tại Paris ngày Thứ Sáu 13 Tháng 11: đa số hung thủ là công dân Âu Châu đã từng đi qua Syria.

Khốn nỗi, sự thật lại chẳng đơn giản. Đặc công khủng bố thường ra vào Syria hay Iraq bằng cửa lậu, nên chẳng có giấy tờ hay hồ sơ xuất nhập, như con dấu đóng trên sổ thông hành.

Trước đây, khi còn có sổ thông hành bị đóng dấu tại cửa khẩu của Afghanistan hay Pakistan thì họ khai man là mất sổ để xóa vết tích kiểm chứng nên Hoa Kỳ mới cần sự cộng tác của các đồng minh để chia sẻ thông tin. Và nếu có chi tiết về việc nghi can đã quá quan hai xứ Syria và Iraq thì đấy là từ hệ thống tình báo hơn là di trú.

Thật ra, Hoa Kỳ đã lập thể thức kiểm soát thông hành và chiếu khán từ sau vụ 9-11 năm 2001.

Thể thức ấy còn được tăng cường sau khi có vụ khủng bố hụt bằng chất nổ giấu trong đồ lót vào năm 2009. Chính là vì chế độ kiểm soát hiệu nghiệm này nên quân khủng bố xưng danh Thánh Chiến Jihad, như Al-Qaeda rồi Nhà nước Hồi giáo ISIS, mới nghĩ tới giải pháp khủng bố nội địa, khủng bố tự phát và khủng bố không đầu não: kết nạp cảm tình viên và dùng hê thống tuyên truyền trên mạng để huấn luyện đặc công bố ngay trong lòng “địch”, trong các xã hội Tây phương.

Nếu không hốt hoảng mà cố nhìn vào bên trong, người ta có thể thấy đa số các vụ khủng bố nhắm vào nước Mỹ sau vụ 9-11 đều xuất phát từ công dân Mỹ hơn là từ kẻ xa lạ ở bên ngoài muốn lẻn vào Mỹ để giết người. Cũng chi tiết ấy khiến ta chú ý đến nạn khủng bố nội địa hơn là quốc tế.

Từ quốc tế chỉ có một chuỗi đánh hụt: Richard Reid và các công dân Anh vào Mỹ bị lớ ngớ tuột giày; Al-Qaeda tại Bán đảo Á Rập AQAP thì lọt ải kiếm soát di trú bằng một người không thuộc nước Yemen đáng nghi, mà là dân Nigeria, tay khủng bố giấu bom trong tã Umar Farouk Abdulmutallab.

Từ bên trong, quân khủng bố nội địa có gây tiếng vang: như Jose Padilla, kẻ chơi bom bẩn; Najibullah Zazi, kẻ ra tay dưới hầm xe lửa New York; kẻ tông xe SUV tại Đại học North Carolina là Mohammed Reza Taheri-Azar, v.v… Và sau vụ 9-11, mọi đòn tấn công gây tử vong đều xuất phát từ các công dân Hoa Kỳ, ngoại lệ duy nhất là một công dân Ai Cập vào Mỹ dưới diện… tỵ nạn chính trị, là Hesham Mohamed Haydayet. Nhiều lắm, danh tánh của bọn sát nhân thuộc diện Mỹ giấy: John Mohammed, Aldulhamim Mujahid Muhammad; Thiếu tá Abdul Nidal, hai anh em Dzhokar và Tamerlan Tsarnayev, Zale Thompson, Muhammad Abdulazeez và vợ chồng hung thủ tại San Bernardino, có thể với sự đồng lõa của Enrique Marquez, v.v…

Cho nên, khi nhìn từ bên trong, chúng ta cần có kết luận khác.

Hoa Kỳ vẫn phải duyệt lại và tăng cường hệ thống thanh lọc di dân để ngăn khủng bố ngoại nhập chắc chắn là vẫn muốn vào Mỹ bằng ngả nay hay ngả khác, nhưng nạn khủng bố nội hóa, do các hung thủ đã có quốc tịch Hoa Kỳ vẫn có thể nảy mầm trong nước Mỹ từ hoạt động tuyên truyền của nhiều tổ chức Thánh Chiến ở bên ngoài. Đấy là thực tế của đời sống tại Hoa Kỳ. Và những trách cứ ồn ào của các chính khách nhằm xiết chặt kiểm soát di dân còn có thể gây ấn tượng nguy hiểm, rằng nước Mỹ sẽ an toàn hơn vì đã có nhà nước lo.

Người Mỹ không thể cấm cửa dân Hồi giáo theo đề nghị của Donald Trump, càng không thể trục xuất mọi người Hồi giáo. Người Mỹ cũng chẳng thể phó mặc việc bảo vệ cho các cơ quan hữu trách như FBI, NSA hay CIA và Cảnh sát địa phương.

Người Mỹ phải tự nhìn vào trong, về văn hóa và thông tin, về giáo dục và phát triển cộng đồng. Xã hội công dân, doanh nghiệp, các tổ chức ngoài chính phủ, và lãnh đạo tôn giáo, kể cả đạo Hồi, v.v… cần tự đảm nhiệm vai trò bảo vệ ngay trong đời sống thường nhật, trong khu phố, trường học hay giáo đường. Nhất là trên các mạng xã hội.

Đấy là nơi mà các tổ chức khủng bố tuyên truyền để kết nạp cảm tình viên, với phương tiện và kỹ thuật hiện đại.

Kết luận ở đây là mối nguy cho nước Mỹ không chỉ đến từ ngoài mà đã có sẵn ở bên trong. Mối nguy đó đến từ tâm lý và tâm linh.

***

Không hiểu sao, người viết bỗng lâm râm hát “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm.
 
Merry Christmas và Happy Near You!





Saturday, December 19, 2015

Điều 88: Tội càng nhẹ tù càng nặng?

Điều 88: Tội càng nhẹ tù càng nặng?
·         18 tháng 12 2015


Ngay sau khi báo chí Việt Nam đưa tin về vụ bắt luật sư Nguyễn Văn Đài vì 'vi phạm' điều 88 Bộ Luật hình sự Việt Nam, một số người dùng Facebook đã chỉ ra sai lệch về hình phạt giữa bản tiếng Anh và tiếng Việt trong luật này trên trang Bộ Tư pháp.
Nội dung tiếng Việt ghi là hình phạt cao nhất cho "trường hợp đặc biệt nghiêm trọng" là án tù đến 20 năm.
Nhưng bản tiếng Anh lại ghi là án tù cao nhất đó "dành cho tội phạm ít nghiêm trọng hơn".
Trên trang của Bộ Tư pháp CHXHCN Việt Nam ở địa chỉ www.moj.gov.vn người đọc có thể thấy:
"Điều 88. Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm."
Nhưng bản tiếng Anh của Bộ Luật hình sự 21/12/1999 được đăng lên, tính đến ngày 17/12/2015 khi người đọc xem trang này, lại viết:
"2. In the case of committing less serious crimes, the offenders shall be sentenced to between ten and twenty years of imprisonment."
(Trong trường hợp phạm các tội ít nghiêm trọng hơn, kẻ vi phạm sẽ bị xử từ 10 đến 20 năm tù giam.)
Dịch cắt dán?

Một số bạn đọc trên Facebook đã cho rằng đây chỉ là "lỗi dịch thuật, in ấn".
Nhưng nếu đây là một lỗi dịch thuật thì cũng có nghĩa người nước ngoài, kể cả các quan chức ngoại giao, giới luật gia chỉ có thể đọc bản tiếng Anh và hiểu một nội dung khác hẳn, thậm chí ngược lại nội dung tiếng Việt.
Các lỗi này có vẻ lặp lại ở cả Điều 80, 85, 86, 87.
Nhưng điều luật này đều ghi tội phạm 'less serious' (ít nghiêm trọng) sẽ bị xử tới mức án cao nhất cho phép.
Một điều đáng chú ý nữa là bản tiếng Anh của Bộ Luật hình sự Việt Nam dùng tiếng Anh kiểu Mỹ, với các từ 'offenses, organizer, laborer' thay cho 'offences, organiser, labourer' trong tiếng Anh ở Anh.
Nguyễn Văn Đài và Thượng nghị sỹ Hoa Kỳ John McCain
Nhiều từ ngữ không mang tính chuyên môn, có vẻ như lặp lại một cách dịch tối nghĩa.
Khái niệm 'tội phạm nghiêm trọng' được dịch thành 'serious crimes' và dùng tràn lan.
Trong khi đó, các văn bản quốc tế phân biệt 'grave offences', chỉ các tội nghiêm trọng từ phản quốc, sát nhân đến bắt cóc, khủng bố...và 'serious offences' cho các tội không nghiêm trọng bằng (gây thương tích, gây cháy nổ...).
Khái niệm 'gây ra hậu quả nghiêm trọng' trong tiếng Việt được dịch thành 'causing serious consequences' trong khi 'to cause' theo nghĩa 'gây ra' chỉ dùng để nói về các hành vi cụ thể (to cause death, exposion, danger).
Còn 'cause' và 'consequences' thường dùng trong tiếng Anh để nói về 'nguyên nhân và hậu quả' của hành vi nói chung.
Tội phạm 'có tổ chức' được văn bản trên biến thành 'in an organized manner' (làm việc ngăn nắp) và ghi liên tục trong nhiều điều luật.
Chính vì thế, một số dân mạng cho rằng Bộ Tư pháp Việt Nam đã soạn văn bản tiếng Anh cho luật hình sự bằng cách "cắt dán" các câu từ những điều luật hay câu văn nào khác trên mạng.



2016: Ba vấn đề của kinh tế Trung Quốc

2016: Ba vấn đề của kinh tế Trung Quốc
Nguyên Lam & Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
2015-12-16
Những thách đố quan trọng
Trong năm 2016, đâu là những thách đố lớn nhất cho nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới là Trung Quốc? Trong loại bài cuối năm, Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu chuyện này.
Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nghĩa. Sau khi tìm hiểu về những thách đố cho kinh tế Việt Nam trong năm tới, kỳ này, xin yêu cầu ông trình bày về tình hình Trung Quốc, với nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới. Vì Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn với khá nhiều vấn đề, vì vậy xin đề nghị ông chọn cho những thách đố ông cho quan trọng và có ảnh hưởng nhất trong năm tới.
Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi xin được nói về bối cảnh trước rồi sẽ tập trung vào một số vấn đề có ảnh hưởng nhất của Trung Quốc.
Nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới về sản lượng đang có chỉ dấu sa sút, với xuất khẩu và nhất là nhập khẩu đều giảm trong mấy quý liền. Trong một thế giới toàn cầu hóa, khi các nền kinh tế đều giao dịch với nhau, những khó khăn kinh tế của Trung Quốc, và của khối Âu Châu cùng các nền kinh tế đang phát triển, có thể dẫn tới nguy cơ suy trầm toàn cầu, như nhiều trung tâm nghiên cứu quốc tế đã dự đoán. Hậu qủa của nạn suy trầm ấy sẽ gây tác động ngược vào Trung Quốc ngay giữa cuộc chuyển hướng.
Cũng về bối cảnh, dù thực chất thì còn có nhiều yếu kém, kinh tế Hoa Kỳ vẫn có đà tăng trưởng khả quan nhất nên lãi suất tại Mỹ sẽ từ từ lên khỏi sàn. Điều ấy cũng ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối và trị giá của đồng bạc Trung Quốc trong năm tới, khi Bắc Kinh cố đạt tiêu chuẩn của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế nhằm đưa đồng Nguyên vào rổ Đặc Trích SDR.
Ngay sau Tết, Quốc hội Bắc Kinh có thể công bố các quyết định xuất phát từ Hội nghị Trung ương vừa qua về chiều hướng phát triển kinh tế của Kế họach Năm năm 2016-2020, là thời kỳ cuối trước khi đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ có Đại hội 19 để tổng kết năm năm lãnh đạo của Tập Cận Bình. Yếu tố chính trị sẽ có ảnh hưởng rất mạnh đến chính sách kinh tế.
Nguyên Lam: Thưa ông, từ bối cảnh rất khái quát ấy, ông thấy những gì là thách đố kinh tế cho Trung Quốc?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng vấn đề số một vẫn là làm sao đạt mức tăng trưởng cao để tránh nạn thất nghiệp? Chúng ta đều biết lãnh đạo Bắc Kinh đã thấy nhiều nhược điểm trong cơ cấu kinh tế và muốn cải cách để lấy tiêu thụ nội địa làm lực đẩy cho tăng trưởng, hơn là đầu tư và xuất khẩu. Muốn nâng mức tiêu thụ thì còn phải có lợi tức. Dù các thống kê của Bắc Kinh có nhiều sai biệt khó hiểu, người ta vẫn thấy lợi tức thuần, tức là số tiền có thể tiêu thụ, của các hộ gia đình Trung Quốc vẫn còn quá thấp so với Tổng sản lượng GDP, sức tiêu thụ nội địa của kinh tế xứ này chưa thể là lực đẩy cho đà tăng trưởng. Khi ấy và bước qua năm tới, Bắc Kinh vẫn phải dùng hai đòn bẩy cố hữu là đầu tư và xuất khẩu. Trong hoàn cảnh chưa khả quan của thế giới, xuất khẩu của Trung Quốc vẫn không tăng đủ, nên Bắc Kinh lại sử dụng đòn bẩy cố hữu là đầu tư. Đấy là một mâu thuẫn giữa thực tế và ý chí cải cách.
Mâu thuẫn ấy mới dẫn tới một vấn đề cực kỳ nguy ngập. Trong hiện tại, Trung Quốc có nền kinh tế đang mắc nợ, với hệ thống tín dụng ban phát tài nguyên đầu tư kém hiệu suất. Khi phải sử dụng đòn bẩy đầu tư, Bắc Kinh phải tiếp tục mở vòi tín dụng và doanh nghiệp càng thêm mắc nợ. Các dự báo khách quan nhất cho thấy là càng muốn tăng trưởng cao, giả dụ như 6% một năm, thì gánh nợ càng nặng nên có thể sụp đổ. Muốn tránh khủng hoảng tài chính vì hiện tượng vỡ nợ dây chuyền đang manh nha, Bắc Kinh phải chấp nhận một đà tăng trưởng thực tế hơn, khoảng 4% một năm, khi ấy họ lại bị nạn thất nghiệp và động loạn xã hội!
Nguyên Lam: Nguyên Lam hiểu rằng thách đố số một của Trung Quốc trong năm tới là hai nguy cơ trái ngược. Một là khủng hoảng tài chính vì nạn vỡ nợ, hai là khủng hoảng xã hội vì nạn thất nghiệp. Có phải như vậy không thưa ông?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng đây là một vấn đề trường kỳ, có thể kéo dài cả chục năm nhưng khởi sự từ năm tới. Đã vậy, năm tới, Bắc Kinh còn có tham vọng đưa đồng Nguyên vào rổ Đặc Trích như chúng ta đã có lần trình bày và ước mơ chính trị ấy cũng có cái giá phải trả về kinh tế!
Nguyên Lam: Thưa ông, vì sao lại có cái giá phải trả và đấy là gì?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng hai năm nữa thôi, Bắc Kinh sẽ ân hận về ước muốn biểu kiến này.
Thứ nhất, trước Tháng 10 năm tới, họ sẽ phải chầm chậm thả nổi đồng bạc chứ không neo vào đồng Mỹ kim nữa thì mới đạt tiêu chuẩn của IMF là “tự do sử dụng”. Dù có thả neo chầm chậm, mà chưa biết là thả như thế nào, thì hậu quả trước tiên vẫn là đồng Nguyên mất giá, nhất là khi Mỹ kim lên giá từ quyết định nâng lãi suất tại Hoa Kỳ. Có thể Bắc Kinh mở dần biên độ giao dịch của đồng bạc nhưng lại e sợ nạn tẩu tán tài sản từ thị trường nội địa ra ngoài khi tài sản lưu giữ bằng đồng Nguyên bị mất giá.
Thứ hai, cũng trong ý chí tăng khả năng giao dịch của đồng bạc, Bắc Kinh có hàng loạt hiệp ước thương mại song phương với các nước để mong thiên hạ sẽ dùng và lưu trữ đồng Nguyên nhiều hơn trong khối ngoại tệ dự trữ của họ. Việc Bắc Kinh huy động nước Anh vào vai trò một trung tâm giao dịch đồng Nguyên với các nước nằm trong hướng đó. Tuy nhiên, chẳng phải vì vậy mà xứ nào cũng ôm lấy tiền Tầu, vì yêu cầu của họ là chuyển đồng ngoại tệ mua bán ra đồng bạc nội địa của họ. Trong hiện tại, và với hiện tượng nhập siêu là nhập hơn xuất khẩu của kinh tế Mỹ, đồng Mỹ kim vẫn là ngoại tệ phổ biến nhất. Trung Quốc chưa được như vậy và càng khó được vì chủ trương “trọng thương” hay lý tài là cố bán nhiều hơn mua, là được xuất siêu! Bắc Kinh quên rằng Hoa Kỳ đã có sức mạnh kinh tế rất lâu mà phải đợi hơn nửa thế kỷ lẫn trận Thế chiến II mới thấy Mỹ kim là ngoại tệ sử dụng phổ biến nhất.
Thứ ba, và đây mới là chuyện trái khoáy, các quốc gia buôn bán với nhau thì không dùng thứ ngoại tệ bổ sung là đồng SDR, và có đồng Nguyên hay không ở trong cái rổ quý tộc ấy chưa chắc là một ưu thế kinh tế mà chỉ được cái tiếng chính trị. Niềm an ủi cho Bắc Kinh là khi đồng Nguyên mất giá thì hàng xuất khẩu của Trung Quốc sẽ rẻ hơn, nhưng cái giá kia là nạn tẩu tán tài sản, trong những biến động ngoại hối kéo dài!
Nguyên Lam: Ông nêu ra hai thách đố là tăng trưởng và ngoại hối. Thưa ông, thách đố thứ ba là gì?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi vẫn nghĩ đến chính trị với biểu hiện rõ rệt nhất là chiến dịch diệt trừ tham nhũng. Thí dụ làm các thị trường tài chính chấn động là một tỷ phú, Chủ tịch của Tập đoàn Fosun bỗng dưng mất tích! Người ta không biết ông Quách Quảng Xương này bị câu lưu, bị giam giữ hay bị điều tra về tội gì nhưng từ cả năm qua đã có mười mấy vụ gọi là “mất tích” như vậy trên doanh trường Trung Quốc. Khi ấy, ai cũng có thể hỏi rằng xứ này có luật lệ gì không mà nhà cầm quyền có thể bắt hay tha, thả hay giữ mà chẳng cần giải thích gì?
Nhìn rộng ra ngoài doanh trường, người ta thấy là từ ba năm nay, từ Tháng 12 năm 2012, Trung Quốc đã có những vụ thanh lọc mở rộng kéo dài cũng dữ dội như trong 10 năm của cuộc Cách Mạng Văn Hóa Vô Sản Vĩ Đại từ 1967 đến 1976. Trong vụ thanh lọc này, nhiều đảng viên cao cấp thuộc thành phần chỉ huy các tập đoàn kinh tế nhà nước như CNPC, Sinopec, Chinalco, Dongfeng Motors… đều bị tống giam trong tiến trình gọi là điều tra của Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương là một cơ chế rất mạnh trong đảng. Khi lãnh đạo tư doanh cũng rơi vào chiến dịch “đả hổ đập ruồi” này thì doanh giới quốc tế tự hỏi rằng xã hội dân sự tại Trung Quốc có giá trị gì không và đâu là hệ thống pháp quyền của một nền kinh tế có sản lượng đứng hạng nhì thế giới? Một cách phũ phàng thì liệu thế giới có đang buôn bán với một chế độ Mafia không?
Những động lực chính trị
Nguyên Lam: Thưa ông là hình như đằng sau vụ bắt giữ lan rộng đang làm hệ thống kinh tế và hành chính của Trung Quốc bị tê liệt, người ta còn thấy những động lực chính trị gì đó rất khó hiểu bên trong. Làm sao thế giới có thể nói chuyện làm ăn hay sử dụng đồng bạc của một quốc gia đầy bí hiểm như vậy?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Vâng, thưa đấy mới là thách đố thứ ba cho lãnh đạo Bắc Kinh.
Trước hết, dù Hội nghị Trung ương kỳ 5 vừa rồi có làm người ta hy vọng rằng chiến dịch do Chủ tịch Tập Cận Bình và ông Vương Kỳ Sơn của Ủy ban Kỷ luật Trung ương phát động sẽ đi vào hồi kết cuộc thì thực tế cho thấy rằng nó vẫn kéo dài và biến chất thành một vụ thanh trừng chính trị trên thượng tầng của đảng, với ảnh hưởng tỏa rộng ăn sâu xuống dưới. Việc một nhân vật có đầy thế lực như ông Tăng Khánh Hồng mà còn bị hỏi giấy thì bao nhiêu tay chân thân tộc của các nhân vật thần thế này tất nhiên là không yên tâm. Đã vậy, cái phương pháp “song quy” là hai vòng điều tra song hành với khả năng tra tấn để ép cung các nghi can còn cho thấy hình ảnh man rợ của một chế độ đang muốn ra vẻ văn minh.
Tất nhiên là mọi phe phái trong cuộc, từ trung ương đến các địa phương, đều không thụ động chờ ngày bị ai đó bất thần hỏi cung mà phải tìm cách tự vệ hoặc bảo vệ nhau. Thụ động thì chẳng ai dại gì lấy quyết định vì có khi mang tội. Chủ động thì liên kết với nhau để trì hoãn hoặc cản trở chiều hướng cải cách do Tập Cận Bình đề ra. Và càng tập trung quyền lực thì Tập Cận Bình càng dễ mang trách nhiệm thất bại về kinh tế.
Nguyên Lam: Câu hỏi sau cùng, thưa ông Nghĩa. Năm tới sẽ khởi sự Kế hoạch Năm năm thứ 13 của Trung Quốc cho giai đoạn 2016-2020. Đấy là kỳ hạn chót để xứ này đạt chỉ tiêu nâng đôi lợi tức người dân kể từ năm 2010. Như ông có trình bày một lần, nếu trong 10 năm mà muốn tăng lợi tức gấp đôi thì bình quân một năm phải tăng được 7%. Trong phần đầu, ông có trình bày bài toán tăng trưởng của xứ này từ năm tới là nếu tăng được 6%, tức là còn thấp hơn cái ngưỡng 7% nói trên, thì kinh tế Trung Quốc càng mắc nợ nhiều hơn. Như vậy thì tình hình sẽ ra sao đến cuối giai đoạn 2020?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Trước khi đến thời điểm 2020 đó, đảng Cộng sản sẽ có Đại hội Khóa 19 vào cuối năm 2017. Đại hội này phải duyệt xét thành quả và chuẩn bị nhân sự, trong đó có việc đề cử năm trong bảy người đang ngồi trong Thường vụ Bộ Chính trị sẽ phải ra đi vì tuổi tác. Hai người còn lại là Tổng bí thư Tập Cận Bình và Tổng lý Quốc vụ viện là Thủ tướng Lý Khắc Cường. Trong khung cảnh khó khăn và bất trắc hiện nay, việc tranh đoạt quyền bính để đưa năm người vào vị trí cao cấp nhất cũng báo hiệu khá nhiều sự lạ.
Sau cùng ta không nên quên rằng sau 36 năm tăng trưởng và dễ thở kể từ 1980 là năm đầu tiên có kết quả cải cách của Tập Cận Bình, Trung Quốc đang khách quan tới thời kỳ sửa đổi vì kinh tế đã đi qua hình thái khác. Ba thách đố nói trên, chưa kể tới nhiều khó khăn khác về môi sinh và xã hội, sẽ gây lúng túng cho lãnh đạo và dẫn tới một câu hỏi là hệ thống kinh tế chính trị của Trung Quốc có còn ưu điểm gì không?
Nguyên Lam: Xin cảm tạ ông Nghĩa về bài tổng kết này.