Toàn Cảnh Trước Tết Mậu Thân 1968
Trần Gia Phụng
(Danlambao)
-----------------
-----------------
Tết năm
nay, 2018 là năm Mậu Tuất. Mậu Tuất (2018) cách Mậu Thân (1968) đúng 50 năm.
Tuy đã qua nửa thế kỷ, biến cố Mậu Thân vẫn còn đậm nét trong trí nhớ người
Việt ở Nam Việt Nam (NVN), nhứt là những người lớn tuổi đã từng trải qua biến
cố đau thương nầy. Trong khi đó, nhà cầm quyền cộng sản (CS) trong nước cố tình
tìm cách bôi xóa dấu vết tội ác và làm lạc hướng lịch sử, để chạy tội trước dân
tộc, nhưng “ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”
Nhân dịp kỷ niệm
50 năm Mậu Thân đau thương, loạt bài này cố gắng mở lại hồ sơ biến cố Tết Mậu
Thân để các thế hệ trẻ biết rõ những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhằm tránh
những lầm lẫn trong tương lai. Xin bắt đầu bằng toàn cảnh tình hình trước biến
cố Mậu Thân (1968).
1. TỔNG QUAN
Tình hình Quốc
tế: Sự kiện quốc tế ảnh hưởng quan trọng đến chính sách của Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa hay Bắc Việt Nam (BVN) vào thập niên 60 thế kỷ trước, là việc
Nikita Khrushchev, bí thư thứ nhứt đảng CS Liên Xô, bị đảo chánh ngày
15-10-1964.
Nguyên trong đại hội 20 đảng CS Liên Xô tháng
2-1956, Nikita Khrushchev đưa ra chủ trương hòa dịu với các nước tây phương và
sống chung hòa bình (peaceful coexistance) giữa các nước có chế độ chính trị
khác nhau. Vào đầu năm 1957, chính phủ Liên Xô bất ngờ đề nghị hai miền Bắc VN
và Nam VN cùng vào Liên Hiệp Quốc như hai nước riêng biệt, nhưng bị nhà cầm
quyền Bắc VN quyết liệt phản đối. (William J. Duiker, Ho Chi Minh a Life, New York: Hyperion, 2000,
tr. 500.)
Sau khi Nikita Khrushchev bị lật đổ, ban lãnh
đạo mới của Liên Xô gồm tam
đầu chế Leonid Brezhnev, Alexei Kosygin và Nicolay Podgorny bỏ chính sách của Khrushchev, trở lại chủ trương
can thiệp trên thế giới, mà sau nầy các nước Tây phương gọi là thuyết Brezhnev. Tam đầu chế Liên Xô quyết định ủng hộ Bắc VN
nhằm lôi kéo Bắc VN về phía mình trong cuộc tranh chấp giữa Liên Xô và Trung
Cộng. Sự ủng hộ nầy càng làm cho Bắc VN đẩy mạnh chiến tranh ở Nam VN.
Trong khi đó, sau biến cố Maddox xảy ra trong
vịnh Bắc Việt vào tháng 8-1964, lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa ra ngày
7-8-1964 hoàn toàn ủng hộ tổng thống Lyndon B. Johnson trong việc mở rộng chiến
tranh Việt Nam.
Ngày 1-12-1964, tổng thống Johnson công bố kế
hoạch dội bom BắcVN. Như thế là không tuyên chiến, Hoa Kỳ đưa quân tham dự hẳn
vào chiến tranh Việt Nam chứ không chỉ giữ vai trò cố vấn cho Quân đội VNCH như
trước nữa. Quân số Hoa Kỳ tăng nhanh, từ trên 20,000 cố vấn và chuyên viên cuối
năm 1964, lên đến 486,000 quân cuối năm 1967.
Nhằm trấn an BắcVN sau phản ứng của Hoa Kỳ về
biến cố Vịnh Bắc Việt, thủ tướng Liên Xô Alexei Kosygin viếng thăm Hà Nội tháng
2-1965, tuyên bố sẵn sàng giúp đỡ BắcVN trong trường hợp BắcVN bị Hoa Kỳ tấn
công.
Tháng 4-1965, Lê Duẩn, bí thư thứ nhứt đảng Lao
Động cầm đầu phái đoàn sang Moscow đáp lễ và tiếp tục cuộc thương thuyết. Một
thỏa ước viện trợ được ký kết; đồng thời Liên Xô đồng ý cho Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam
(MTDTGPMNVN), một tổ chức ngoại vi
của cộng sản BắcVN ở NamVN, đặt văn phòng liên lạc tại Moscow.
Từ đó, võ khí Liên Xô được đưa vào chiến trường
NamVN để trang bị cho lực lượng CS. Nhiều quan sát viên ghi nhận rằng các loại
võ khí nầy tối tân hơn các loại võ khí còn sót lại sau thế chiến thứ hai
(1939-1945), mà Hoa Kỳ trang bị cho quân lực VNCH cho đến năm 1968.
Về phía Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) hay NamVN, từ
cuối năm 1963, tình hình chính trị xáo trộn mạnh sau khi tổng thống Ngô Đình
Diệm bị đảo chánh ngày 1-11-1963, cùng với sự hủy bỏ luôn hiến pháp ngày
26-10-1956 do tổng thống Diệm ban hành.
Trung tướng Dương Văn Minh cầm quyền chẳng được
bao lâu thì bị trung tướng Nguyễn Khánh thay thế ngày 29-1-1964. Ông Khánh gặp
nhiều chống đối, nhất là từ sau khi ông tuyên bố Hiến chương ngày 16-8-1964,
thường được gọi là Hiến chương Vũng Tàu.
Tình hình chính trị ổn định lại dần dần vào năm
1965. Ngày 1-4-1966, Quốc hội Lập hiến được bầu lên. Bản hiến pháp mới được ban
hành ngày 1-4-1967, hình thành nền Đệ nhị Cộng Hòa. Cuộc bầu cử tổng thống đầu
tiên nền Đệ nhị Cộng Hòa ngày 3-9-1967 đưa đến việc liên danh các tướng Nguyễn
Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ đắc cử tổng thống và phó tổng thống, chấm dứt giai
đoạn khủng hoảng chính trị kéo dài từ sau ngày tổng thống Diệm bị sát hại.
Lợi dụng sự bất ổn chính trị của VNCH kéo dài từ
năm 1963 đến năm 1966, Mặt Trận Giải Phóng MNVN phát triển mạnh mẽ được một
thời gian. Khi VNCH tái ổn định dần dần từ sau cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến
năm 1966, MTDTGPMNVN bị suy thoái trở lại.
Một hiện tượng xã hội ít được chú ý là do chiến
tranh càng ngày càng gia tăng cường độ, vùng nông thôn xôi đậu bất ổn, nên mỗi năm có khoảng từ 500,000 đến 1 triệu dân nông thôn
tránh bom đạn, bỏ ra thành thị tỵ nạn, sinh sống dưới sự kiểm soát của chính
quyền VNCH. (Don Oberdorfer, Tet!,
New York: Nxb. Da Capo, 1984, tr. 53.)
Điều nầy về lâu về dài gây nhiều thiệt hại cho
du kích CS. Cộng sản không có dân chúng để trà trộn trốn tránh, cũng không có
dân chúng để tiếp tế nuôi ăn, lại thiếu thanh thiếu niên để bắt lính, và một số
cán binh CS bỏ về thành theo gia đình hoặc quy thuận chính phủ Quốc gia theo
chính sách chiêu hồi, làm cho bộ đội CS càng ngày càng hao hụt.
2. CỘNG SẢN QUYẾT ĐỊNH TẤN CÔNG
Lúc đó, giới lãnh đạo BắcVN nhận định rằng sau
ba năm xáo trộn, với nhiều cuộc biểu tình khắp các thành phố NamVN, tình hình
đủ chín mùi để có thể kêu gọi dân chúng tổng khởi nghĩa như tháng 8-1945 ở Hà
Nội. Nếu để chính quyền VNCH ổn định trở lại, thì càng ngày càng bất lợi cho
CS, cho nên BắcVN quyết định tổ chức tổng tấn công, bất ngờ đánh chiếm các
thành thị miền Nam, rồi kêu gọi dân chúng nổi lên tổng khởi nghĩa.
Cuộc tổng tấn công, tổng khởi nghĩa do CS Hà Nội
chủ trương nhắm các mục đích sau:
* Cộng sản dự tính chiếm chính quyền, phá hủy hệ thống chính quyền
VNCH, tạo bất ổn khó khăn cho VNCH.
* Trực diện đối đầu với Hoa Kỳ, CSVN ước tính khó có thể thắng được
quân đội Hoa Kỳ, trang bị võ khí tối tân và hùng hậu hơn quân đội Pháp trước
đây rất nhiều. Do đó, CSVN cần gây tiếng vang lớn trên thế giới và tại Hoa Kỳ,
để lung lạc và làm chia rẽ dân chúng Hoa Kỳ.
Năm 1968 là năm tranh cử tổng thống Hoa Kỳ, tình
hình chính trị Hoa Kỳ rất nhạy cảm. Dân chúng Hoa Kỳ bị kích động vì cuộc tổng
tấn công, sẽ đẩy mạnh phong trào hòa bình và phản chiến tại Hoa Kỳ. Một khi hậu
phương Hoa Kỳ bất ổn thì quân sĩ Hoa Kỳ ở tiền tuyến sẽ giảm ý chí chiến đấu.
Chỉ có thế mới mong Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam.
* Cộng sản sửa soạn một thế mạnh để nói chuyện trên bàn hội nghị, vì
lúc đó cuộc hòa đàm giữa các bên lâm chiến sắp sửa diễn ra. (Trên thực tế, cuộc
hòa đàm bắt đầu vào tháng 5-1968.)
* Đưa
chiến tranh vào thành phố sẽ làm cho dân nông thôn chạy ra thành thị quay trở
về nông thôn, vì từ nay thành thị cũng bị tấn công mất an ninh như nông thôn,
đồng thời chận đứng làn sóng dân chúng di chuyển từ nông thôn ra thành thị, gỡ
rối cho hạ tầng cơ sở ở nông thôn của MTDTGPMNVN;
* Cộng
sản muốn chận đứng việc hồi chánh của một số phần tử trong MTDTGPMNVN, vốn
không phải là đảng viên CS, mà chỉ là những người bất mãn với chế độ Ngô Đình
Diệm, muốn quay trở lại với VNCH khi ông Diệm bị lật đổ
* Nếu
cuộc tổng tấn công thất bại, và chủ lực của MTDTGPMNVN bị tiêu diệt, đối với
đảng Lao Động ở Hà Nội cũng là điều rất có lợi, vì lý do sau đây: Khi mới thành
lập, MTDTGPMNVN gồm đa số là đảng viên CS miền Nam và những người bất mãn chế
độ miền Nam bỏ theo Mặt trận. Đảng Lao Động BVN không tin tưởng và không kiểm
soát được cả hai thành phần nầy. Nếu chủ lực MTDTGPMNVN bị quân đội VNCH tiêu
diệt, thì đây sẽ là cơ hội tốt để đảng Lao Động gởi người từ BắcVN vào thay
thế, nắm gọn và điều khiển hẳn toàn bộ MTDTGPMNVN, mà không bị tranh chấp nội
bộ gay go.
Sau năm 1975, một số nhân vật trong MTDTGPMNVN
công khai tố cáo âm mưu nầy của đảng Lao Đông, trong đó có bác sĩ Dương Quỳnh
Hoa, một trí thức miền Nam trong Mặt trận. (Chính Đạo, Mậu Thân 68: thắng hay bại, Houston: Nxb. Văn Hóa
[tái bản lần thứ hai], 1998, tr. 165.)
Với những tính toán trên, dầu cuộc tổng tấn công
thắng hay bại, đàng nào đảng LĐ ở Hà Nội cũng đều có lợi, nên họ không ngần
ngại hy sinh lá bài MTDTGPMNVN trong mưu đồ thôn tính VNCH. Về sau, ngay khi
cưỡng chiếm được NamVN năm 1975, Hà Nội liền loại bỏ nhóm lãnh đạo MTDTGPMNVN
và giải thể Mặt trận nầy một năm sau đó (1976).
3. NHỮNG BIẾN CHUYỂN TRƯỚC TẾT MẬU THÂN 1968
Vào đầu tháng 7-1967, tại Hà Nội, các cuộc họp
quan trọng của Bộ chính trị và Quân uỷ Trung ương đảng Lao Động, duyệt y kế hoạch phát động cuộc tổng công kích và
tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân (1968). (Don Oberdorfer, sđd. tr. 54). Trong thời gian nầy, tướng Nguyễn Chí Thanh
chết ngày 6-7-1967 ở Hà Nội. Phạm Hùng được gởi vào Nam để thay thế Nguyễn Chí
Thanh, giữ chức bí thư Trung ương cục miền Nam, điều khiển cuộc chiến. (James J. Wirtz, The Tet Offensive, New
York: Cornell University Press, 1994, tr. 52.)
Tại BắcVN, giữa năm 1967, đảng Lao Động ra tay
lần chót, bắt giam tất cả những thành phần theo chủ trương hòa dịu giữa các
nước có chế độ chính trị khác nhau của Khrushchev, tức những thành phần không
đồng ý với cuộc chiến tranh xâm lăng NamVN. Đảng Lao Động lúc đó gán cho họ tội
danh là thành phần "xét lại", âm mưu "chống đảng". Đó là các ông Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang,
và khoảng 40 nhân vật khác, trong đó có cả trí thức, văn nghệ sĩ.
Nhân dịp lễ kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Mười
Liên Xô, Lê Duẩn, bí thư thứ nhứt đảng Lao Động cùng hai uỷ viên Bộ chính trị
là Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Quốc phòng và Nguyễn Duy Trinh, bộ trưởng Ngoại
giao lên đường vào cuối tháng 10-1967 qua Moscow dự lễ.
Trên đường đi, phái đoàn Lê Duẩn ghé qua Bắc
Kinh xin quân viện, trình bày kế hoạch mới theo quyết định của Bộ chính trị
VNDCCH vào tháng 7 vừa qua. Trung Cộng hứa gởi qua 300,000 lính phòng không và
công binh, cung cấp hoả tiễn 107 ly, 240 ly, quân dụng, lương khô, thuốc
men. (Chính Đạo, Mậu Thân 68…,
sđd.tr.
32.)
Tại Moscow, Liên Xô chấp thuận cho BắcVN thêm
đại bác 130 ly, chiến xa T54, phản lực cơ Mig 21 và các loại võ khí nặng
khác. (Hoàng Lạc, Hà Mai Việt,
Nam Việt-Nam, 1954-1975, những sự thật chưa hề nhắc tới, Texas: 1990, tr. 77.) Cũng trong dịp nầy, để chứng tỏ một lần
nữa tình thân thiện Xô Việt, những nhà lãnh đạo Xô Viết quyết định tặng Hồ Chí
Minh huân chương Lenin. (Ralph
Smith, "Thập niên cuối cùng của cuộc đời Hồ Chí Minh", Lê Đình Thông
dịch, đăng trong tuyển tập nhiều tác giả, Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và
sự nghiệp, Paris: Nxb. Nam Á, 1990, tr. 125.)
Từ khi chiến tranh Việt Nam mở rộng, Hoa Kỳ vận
động nhiều chiến dịch ngoại giao khắp nơi trên thế giới, tìm cách chấm dứt
tranh chấp. Vào năm 1967, BắcVN cho biết chỉ thương thuyết khi Hoa Kỳ ngưng ném
bom vô điều kiện BắcVN. Hoa Kỳ trả lời sẵn sàng ngưng ném bom với điều kiện
BắcVN không được lợi dụng thời gian ngưng ném bom để xâm nhập quân đội vào
NamVN.
Trong khi việc ngoại giao còn là quả bóng thăm
dò qua lại giữa các bên, nhân dịp năm hết Tết đến, đài phát thanh Hà Nội đưa ra lời tuyên bố
ngày 19-10-1967 của nhà nước BắcVN, tự nguyện ngưng bắn từ 01G:00 sáng giờ Hà
Nội ngày 27-1-1968 đến 01G:00 sáng giờ Hà Nội ngày 3-2-1968, tức trong 7 ngày.(Wikipedia.org. Chữ khóa: “Sự kiện Tết Mậu Thân.)
Ngày 17-11-1967, mặt trận Giải Phóng MNVN đề nghị
hưu chiến 3 ngày trong dịp lễ Giáng Sinh năm 1967, ba ngày lễ Tết dương lịch
năm 1968 và 7 ngày Tết âm lịch Mậu Thân. (Don Oberdorfer, sđd. tr.
70.)
Chính phủ VNCH thông báo
ngày 15-12-1967 sẽ hưu chiến 24 giờ trong dịp lễ Giáng Sinh và Tết dương lịch,
hưu chiến 48 giờ trong dịp Tết âm lịch. (Chính Đạo, Mậu Thân 68
…, sđd. tr.342.)
Như thế là cả hai bên người Việt Nam đang đánh
nhau đều đồng ý hưu chiến nhân các ngày lễ Giáng sinh, Tết dương lịch và Tết âm
lịch. Tuy nhiên vẫn có kẻ âm thầm mưu mô đánh lén...
Nhằm làm lạc hướng dư luận và sự tính toán của
các giới lãnh đạo Hoa Kỳ cũng như VNCH, CS dịu giọng vào đầu năm 1968. Vào dịp
Tết dương lịch 1968, bộ trưởng Ngoại giao Bắc Việt là Nguyễn Duy Trinh tuyên bố
muốn mở các cuộc hòa đàm và tiếp xúc mật với Hoa Kỳ. Thủ tướng BắcVN Phạm Văn
Đồng cũng ngỏ ý sẵn sàng hòa đàm nếu Mỹ ngưng ném bom, và Đồng còn nhờ một viên
đại diện Romania làm trung gian dàn xếp giữa Hoa Kỳ và BVN. (Hoàng Lạc, Hà Mai Việt, Nam Việt-Nam, 1954-1975,
những sự thật chưa hề nhắc tới, Texas: 1990, tt. 77-78.)
Hà Nội loan báo sẽ thả ba tù binh Hoa Kỳ vì lý
do nhân đạo để đáp ứng những nỗ lực của chính phủ Hoa Kỳ trong việc tìm kiếm
một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam. (Chính Đạo, Mậu Thân 68 …, sđd. tr. 17.)
Tại Nam VN, từ ngày 1-11-1967 diễn ra trận đánh
đẫm máu kéo dài nhiều ngày tại Lộc Ninh, thuộc tỉnh Phước Long. Đến gần Tết âm
lịch, Việt cộng tung quân tấn công các cứ điểm quân sự ở Cao nguyên Trung phần,
và đưa ba sư đoàn chính quy là 325C, 304 và 308 bao vây và pháo kích dữ dội Khe
Sanh (Quảng Trị), gần vùng giới tuyến giữa hai miền Nam Bắc, từ ngày 20-1-1968.
Các nhà lãnh đạo VNCH, Hoa Kỳ, và cả thế giới nữa, rất quan tâm đến tình hình
Khe Sanh, và lo lắng một cuộc đọ sức lớn lao sắp bùng nổ tại đây giữa hai bên
như một Điện Biên Phủ mới. (Johm S. Bowman, The Vietnam War: Day by Day, New York: Mallard
Press, 1989, tr. 118.)
Trong khi đó, CS âm thầm tiếp tục chuẩn bị các
cuộc tấn công vào thành phố. Ngày 2-1-1968, tại cao nguyên Trung phần, quân đội
Hoa Kỳ tịch thu được một tài liệu có đầy đủ kế hoạch CS tấn công Pleiku và
Kontum. Ngày 15-1, tại Khe Sanh, một sĩ quan CS hồi chánh cho biết sẽ có chiến
dịch lớn tại vùng giới tuyến.
Với nhiều tin tức tình báo khác, Bộ tư lệnh quân
đội Hoa Kỳ tại Việt Nam ra lệnh báo động và thông báo cho phía VNCH biết, đồng
thời yêu cầu VNCH hủy bỏ lệnh hưu chiến nhân dịp Tết nguyên đán, nhưng tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu và đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân đội
VNCH, chỉ đồng ý bãi bỏ hưu chiến tại Vùng 1 chiến thuật, và rút bớt 24 tiếng đồng
hồ hưu chiến trên toàn quốc. (Chính
Đạo, Mậu Thân 68..., sđd. tt. 31-32, 344. Trước năm 1975, VNCH được chia thành
4 vùng chiến thuật (CT): Vùng 1 CT: từ Quảng Trị vào đến Quảng Ngãi; Vùng 2 CT:
từ Bình Định đến Bình Thuận và Cao nguyên từ Kontum xuống tới Di Linh; Vùng 3
CT: từ Biên Hòa tới phía Bắc sông Tiền; Vùng 4 CT: từ Mỹ Tho tới Cà Mau.}
Một dấu hiệu nữa về việc CS sẽ tổng tấn công trong
dịp Tết Mậu Thân là tại Bình Định (thuộc Quân đoàn 2 và Vùng 2 CT), chính quyền
VNCH bắt được trước sau 10 cán bộ CS với những tài liệu quan trọng ngày
29-1-1968 (30 Tết), trong đó có cả máy ghi âm sẵn lời phát thanh kêu gọi dân
chúng tổng khởi nghĩa. Tỉnh
trưởng Bình Định đã báo cáo vụ việc lên thượng cấp, nhưng bộ Tư lệnh Vùng 2
không mấy quan tâm. Vị tư lệnh vùng nầy là trung tướng Vĩnh Lộc lại bỏ về Sài
Gòn ăn Tết.
Lúc đó, dư luận chung ở trong cũng như ngoài
nước tin tưởng sự hiện diện của gần 500,000 quân Mỹ tại Việt Nam sẽ bảo đảm an
toàn cho VNCH, nhứt là Cộng Sản BắcVN và Mặt Trận Giải Phóng đều tuyên bố hưu
chiến nhân dịp Tết thiêng liêng của dân tộc. Hơn nữa, do CS vừa tuyên truyền
vừa chuyển quân đe dọa Khe Sanh, nên mọi người chú tâm đến trận chiến ở Khe
Sanh, mà ít chú ý đến những diễn tiến chung quanh các thành phố rộn rịp khác
thường trong những ngày trước Tết.
Về phía Hà Nội, sau sáu tháng nghiên cứu, chuẩn
bị, ngày 21-1-1968, Bộ chính trị đảng Lao Động họp lần chót, quyết định bất ngờ
tổng tấn công trong dịp hai bên tuyên bố hưu chiến đêm Giao thừa Tết Mậu
Thân tại NVN (đêm 29 rạng 30-1-1968).
Thế là máu lửa tang thương trút lên đầu người
dân vô tội ở NamVN trong những ngày Tết thiêng liêng của dân tộc!
Toronto 22-01-2018
No comments:
Post a Comment